Chúng ta hãy nghe những CÁO TRẠNG LUẬN của các
nước dân chủ pháp trị.Và nghe 3 nước tội phạm là: CS Việt
Nam, CS Tàu và CS Cuba đồ đảng tội pham số 1 trên hành tinh nầy.
Chúng trơ trẻn khỏa lấp và tự khen nhau.
Một trò bịp quốc tế. Một trò hề
những tên cướp đóng
vai "lương thiện".
Tóm lược phản ứng quốc tế về báo cáo nhân quyền Việt Nam
Trần Sơn - RadioCTM
Đại diện các nước đang nghe Thứ trưởng ngoại Giao VN
đọc bài tự khen về thành quả nhân quyền tại phiên
họp UPR ngày 05-02-2014
|
Sau khi đại diện nhà nước Việt Nam đọc xong bài tự khen các thành
quả về nhân quyền của mình, khoảng 40 quốc gia đã lập tức nêu ý kiến. Vì số
quốc gia muốn lên tiếng quá đông, mỗi đại diện chỉ được nói 65 giây.
Nhiều quốc gia yêu cầu nhà nước VN phải chấp nhận để tất cả các
điều tra viên LHQ (UN Special Rapporteurs - SR) đến VN quan sát. Hiện giờ, Hà
Nội chỉ chấp nhận các SR về chống nghèo đói và y tế đến VN. Vào tháng 7 năm nay
mới có SR về tự do tôn giáo đến VN. Còn các SR khác về tự do ngôn luận, tụ do
hội họp, v.v vẫn bị Hà Nội khước từ.
Nhiều nước cũng yêu cầu nhà nước VN bỏ án tử hình, hoặc ngưng áp
dụng án tử hình, và giảm bớt các loại vi phạm dẫn đến án tử hình.
Sau đây là phần tóm tắt một số nhận xét tiêu biểu.
Hoa Kỳ:
· Yêu cầu VN trả
tự do cho các ông Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân, Điếu Cày, Trần Huỳnh Duy Thức.
· Yêu cầu VN bỏ
các đạo luật mơ hồ về an ninh quốc gia
Anh Quốc:
· Chúc mừng VN đã
tham gia Hội Đồng Nhân Quyền nhưng nhà nước VN phải chứng minh thiện chí của
mình bằng cách thành lập một cơ quan quan sát nhân quyền theo nguyên tắc quốc
tế.
Thụy Sĩ (Switzerland):
· VN phải tuân thủ
những phán quyết của Ủy Ban LHQ Chống Bắt Giữ Tùy Tiện và trả tự do cho tất cả
các người được nêu tên trong các phán quyết đó, bao gồm các vị trong vụ án Bến
Tre, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Quốc Quân, và các Thanh Niên Yêu
Nước.
·
VN phải tôn trọng quyền của những người đang bị giam cầm, như được phép gặp
luật sư, được gặp thân nhân thăm viếng, và không bị hành hạ trong tù
Thụy Điển (Sweden):
· 58 bloggers VN
đã bị bỏ tù từ năm 2009 đến nay.
· Công an VN vẫn
dùng bạo lực không có lý do chính đáng.
· VN phải hủy bỏ
tất cả điều luật nhằm hạn chế tự do ngôn luận như hiện nay.
Bỉ Quốc (Belgium):
·
VN phải nâng cấp hệ thống luật pháp VN lên mức bình thường của luật pháp quốc
tế.
Canada :
· VN phải bỏ các
điều luật 79, 88, 258 vì nhà nước chi dùng để bắt bớ các nhà dân chủ
· VN phải tôn
trọng nguyên tắc xem bị cáo vô tội cho đến khi có phán quyết của tòa
· VN phải chống
lại tệ trạng bắt bớ tùy tiện
· VN phải tôn
trọng quyền tự do biểu tình
·
Canada sẳn sàng giúp đỡ VN cải thiệu bộ luật hình sự
Trung Quốc :
· Chúc mừng các
thành quả của VN về nhân quyền
· Hoan hô VN đã
xóa đói giảm nghèo, giúp đỡ người tàn tật
· VN phải cố gắng
hơn để bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em, đặc biệt chống bạo hành phụ nữ
Cuba :
· Lãnh tụ Hồ Chí
Minh đã nói VN sẽ có một tương lai tươi sáng thì nay đã trở thành sự thật.
·
Cuba sẽ theo gương VN
Đan Mạch (Denmark):
· Rất quan tâm về
số bloggers bị giam cầm
·
VN phải bỏ các điều luật mơ hồ về an ninh quốc gia vì họ chỉ dùng các điều
khoản đó để bóp nghẹt tự do ngôn luận.
Serbia :
·
VN phải bảo đảm tính độc lập của các quan tòa và công tố viên.
France :
· VN phải xóa bỏ
các điều luật 79, 88, 258
*
* *
* *
Đáp lại các phê phán và yêu cầu của chính giới
quốc tế, nhà nước Việt Nam đưa ra đại diện của 4 bộ và đọc các bản đã soạn
trước:
Bộ Tư Pháp: ca ngợi kết quả sửa đổi hiến pháp
Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư: ca ngợi kết quả xóa đói giảm nghèo
Bộ Thông Tin khẳng định:
Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư: ca ngợi kết quả xóa đói giảm nghèo
Bộ Thông Tin khẳng định:
· Nhà nước VN
không kiểm duyệt báo chí hay Internet
· Nghị định 72 chỉ
nhằm làm Internet an toàn hơn
·
Luật cấm tổng hợp tin tức báo chí là để bảo vệ bản quyền
Bộ Công An khẳng định:
· VN luôn bảo vệ
tự do ngôn luận
· VN chỉ bắt những
người vi phạm luật pháp và không hề có tù nhân chính trị.
Trần Sơn tường trình từ Genève ngày 5/2/2014
THƯ
KHIẾU NẠI VỀ NGĂN CHẶN CÔNG DÂN PHẠM CHÍ DŨNG XUẤT CẢNH
Kính gửi:
Ngài Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng chính phủ
Đồng kính gửi:
Ngài Phạm Bình Minh – Phó thủ tướng chính phủ kiêm Bộ trưởng ngoại giao
Ngài Trần Đại Quang – Bộ trưởng Bộ Công an
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 5
tháng 2 năm 2014
Sau vụ việc bị ngăn chặn xuất cảnh ở sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày
1/2/2014, cho đến giờ tôi vẫn không dám thật sự nghi ngờ rằng chính những người trong chính giới cấp cao của Chính phủ Việt Nam đã tìm
cách “dập tắt tiếng nói” của tôi – như cụm từ mà UN Watch (Tổ chức giám sát nhân
quyền thuộc Liên hiệp quốc) lên án một ngày sau khi xảy ra vụ việc trên.
Dù vậy, một số dư luận trong giới quan sát độc lập và cả “không tự do” ở Việt Nam lại cho rằng không loại trừ khả năng đã có sự can thiệp vừa thầm lặng vừa thô lỗ của một thế lực đang tồn tại ngay trong
lòng đảng và nhà nước cầm quyền – nhóm những người mà có thể bởi những nguyên do đủ tế nhị và không thiếu phức hợp về chính trị đối nội lẫn nỗi ám ảnh tốt đẹp khôn nguôi từ một chính thể phương Bắc, đã thường tìm cách dập tắt tiếng nói của nhóm người đang mong muốn một tinh thần xích lại hơn nữa với phương Tây. Thậm chí trong nhận thức của “nhóm người phương Bắc”, một thứ định chế như Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình
Dương (TPP) là không cần thiết hoặc phải bị ngăn cản.
Vụ việc ngăn cản việc xuất cảnh đối với tôi lại xảy ra ngay trước thềm cuộc Kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền Việt Nam (UPR) diễn ra tại Genève vào
ngày 5/2/2014. Bên lề UPR, tôi được tổ chức UN Watch mời với tư cách diễn giả và đóng góp
tham luận – hoạt động được xem như một trong những cơ sở để Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc xem xét bản báo cáo “thực hiện đến 80% yêu cầu về nhân quyền của Liên hiệp quốc” do Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh
tuyên bố, cũng như những biện giải “luôn chăm lo
và bảo đảm quyền con người” do Nhà nước Việt Nam tuyên
ngôn.
Dưới đây là những nội dung chính của Thư khiếu nại này:
I. Bất chấp những vận động nhiệt tình và thiện ý của Văn phòng Cao ủy nhân quyền Liên hiệp quốc, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và
cộng đồng quốc tế đối với Bộ Ngoại giao Việt Nam, chuyến đi Genève của tôi vào ngày
1/2/2014 từ sân bay Tân Sơn Nhất đã bị Cục quản lý xuất nhập cảnh thuộc Bộ Công an và cơ quan an ninh
thuộc Công an TP. Hồ Chí Minh ngăn
chặn, đồng thời lập biên bản thu giữ hộ chiếu của tôi.
Dù với lý do “kiểm tra nhân thân
trên hộ chiếu”, song các sĩ
quan an ninh cửa khẩu sân bay lại ngay lập tức dùng vũ lực tước máy điện thoại di động của tôi. Sau đó,
trong một phòng cách ly, một sĩ quan an
ninh mặc thường phục tự giới thiệu là Đức, cán bộ của Phòng PA81 thuộc Công an TP.HCM
đã thông báo miệng với tôi rằng tôi không được xuất cảnh vì “hội thảo ở Thụy Sĩ bị các thế lực thù địch lợi dụng nhằm xuyên tạc và nói xấu nhà nước Việt Nam”.
Tôi đã kinh ngạc với bản thông báo miệng như trên. Tôi thật sự nghi ngờ về việc viên sĩ quan
an ninh này không biết đến sự kiện Nhà nước Việt Nam vừa được chấp thuận tham gia vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc với tỷ lệ phiếu thuận áp đảo đến 96% – như một quốc gia được cộng đồng tiến bộ trên thế giới kỳ vọng gần như tuyệt đối vào điều được coi là “lòng
thành chính trị”.
Trước hành động ngăn cản vô lý của cơ quan an ninh, tôi cũng không thể rũ bỏ được tâm trạng nghi vấn về điều được coi là “không
giả dối” liên quan đến 14 điều cam kết mà Nhà nước Việt Nam đã nêu ra
trước Đại hội đồng Liên hiệp quốc vào tháng
8/2013 và công cuộc UPR đầu tháng 2/2014.
Một trong những yêu cầu chủ chốt của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc đối với UPR nhân quyền Việt Nam lại là sự tham gia của xã hội dân sự, và Liên hiệp quốc hoàn toàn khuyến khích các nhóm dân sự và các cá nhân
Việt Nam như tôi tham dự cuộc kiểm điểm mang tính
thành thực mà không phải là giả dối này.
Nhưng thực tế về quyền xuất cảnh ở Việt Nam lại quá dị biệt với những lời cam kết của nhà nước này về quyền đi lại công dân. Vào
giữa tháng Giêng năm 2014, một blogger ở TP. Hồ Chí Minh là Thành Nguyễn đã bị cơ quan an ninh cửa khẩu ngăn chặn chuyến bay tới Mỹ, dù blogger này
đã được tòa lãnh sự Hoa Kỳ cấp visa. Theo blogger Thành Nguyễn, phía cơ quan an ninh chỉ đưa ra một lý do rất mơ hồ trong việc ngăn chặn là “bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội’.
Theo thống kê sơ bộ của giới hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, từ đầu năm 2013 đến nay đã có khoảng 10 trường hợp cá nhân bị ngăn chặn xuất cảnh tại các cửa khẩu, tương tự vụ việc của tôi.
Cũng có thông tin trong giới hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam cho biết hiện đang tồn tại một danh sách lên đến khoảng 2,000 người bị cơ quan an ninh cấm xuất cảnh, trong đó nhiều trường hợp bị ngăn chặn thuộc về các cựu tù nhân lương tâm và những người bất đồng chính kiến.
Ngày 3/2/2014, Hội những người bị cấm xuất cảnh đã được thành lập với tư cách một nhóm phản biện độc lập ở Việt Nam. Bản danh sách chưa đầy đủ mà hội này cung cấp cho thấy có ít nhất 40 người mà vì lý do
chính trị và bất đồng chính kiến đã bị cơ quan an ninh Việt Nam không cho xuất cảnh hoặc bị thu giữ hộ chiếu…
II. Ngay trước thềm UPR diễn ra ngày 5/2/2014 tại Thụy Sĩ, hành động các cơ quan an ninh Việt Nam ngăn chặn việc xuất cảnh đối với tôi đã vi phạm nghiêm trọng quyền tự do đi lại của công dân – được ghi nhận tại điều 12 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã tham
gia từ năm 1982; vi phạm nghiêm trọng Điều 23 của Hiến pháp Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/1/2014 mà theo đó “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Với tư cách một công dân, tôi
không vi phạm bất cứ quy định nào về pháp luật xuất nhập cảnh ở Việt Nam. Trong khi biên bản của Công an cửa khẩu Tân Sơn Nhất cho rằng “phát hiện ông Phạm Chí Dũng là người chưa được xuất cảnh theo đề nghị của Công an thành
phố Hồ Chí Minh”, tôi lại chưa từng được cơ quan an ninh
TP.HCM thông báo về cá nhân tôi không được xuất cảnh.
Ngược với Biên bản số 166/BB-A72-TSN ngày 1/2/2014 của Công an cửa khẩu Tân Sơn Nhất viện ra đề nghị của Công an thành phố Hồ Chí Minh không
cho tôi xuất cảnh dựa vào Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/7/2007 của Chính phủ, tôi không hề vi phạm bất kỳ nội dung nào thuộc Điều 21 của Nghị định
136/2007/NĐ-CP, theo đó: “Công
dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
1. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công tác điều tra tội phạm.
2. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự.
3. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế; đang chờ để giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh tế.
4. Đang có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính,
nghĩa vụ nộp thuế và những nghĩa vụ khác về tài chính trừ trường hợp có đặt tiền, đặt tài sản hoặc có biện pháp bảo đảm khác để thực hiện nghĩa vụ đó.
5. Vì lý do ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm lây lan.
6. Vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
7. Có hành vi vi phạm hành chính về xuất nhập cảnh theo quy định của Chính phủ”.
Từ mộc góc nhìn khác, Điểm 3 của Điều 12 của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị nêu rõ các quyền này sẽ “không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận”. Còn Điều 12 của Hiến pháp quy định “Nước cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam … tuân thủ Hiến chương Liên hiệp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…”.
Như thế, những sự hạn chế quyền tự do đi lại phải do luật định, mà Nghị định
136/2007/NĐ-CP không phải là luật và không thể viện dẫn nghị định này để cản trở tôi hay bất cứ công dân khác nào xuất cảnh.
Ngay giả như có thể áp dụng Nghị định 136/2007/NĐ-CP thì hành động ngăn cản tôi xuất cảnh cũng đã vi phạm thủ tục của chính nghị định đó. Khoản 1 của Điều 22 nghị định trên quy định thẩm quyền quyết định chưa cho công dân
xuất cảnh như sau: chỉ có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án
hay cơ quan thi hành án có thể quyết định chưa cho xuất cảnh theo các khoản 1, 2 và 3 của Điều 21; Bộ trưởng và chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định chưa cho xuất cảnh theo khoản 4 Điều 21; Bộ trưởng Bộ Y tế theo khoản 5; Bộ trưởng Bộ Công an theo
khoản 6; và Thủ trưởng cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công an quyết định chưa cho xuất cảnh đối với những người nêu tại khoản 7 của Điều 21.
“Đề nghị của công an thành
phố Hồ Chí Minh” như được viện dẫn trong biên bản 166/BB-A72-TSN
(đã nêu trên) không phải là quyết định của Công an thành
phố Hồ Chí Minh (trong trường hợp này Công an thành phố Hồ Chí Minh cũng
không có thẩm quyền ấy mà chỉ Bộ trưởng Bộ công an mới có thẩm quyền). Thế nhưng người ký quyết định chưa cho xuất cảnh trong biên bản trên lại là Thượng tá Phạm Quốc Hùng, Phó trưởng đồn công an của khẩu Tân Sơn Nhất. Do vậy, quyết định nêu trong biên bản 166/BB-A72-TSN
là một quyết định hành chính
hoàn toàn trái pháp luật.
III. Hành động ngăn chặn xuất cảnh đối với những người như tôi đã làm xấu đi rất nhiều hình ảnh của Nhà nước Việt Nam trong con
mắt cộng đồng quốc tế, chứng minh không thể sinh động và cập nhật hơn về việc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – một thành viên vừa được bầu của Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp quốc – lại vừa ngang nhiên vi
phạm các cam kết về nhân quyền của Liên hiệp quốc, vi phạm Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia, đồng thời vi phạm hiến pháp của chính nhà nước này.
Trong trường hợp này, tôi hoàn
toàn có quyền và có thể kiện Công an thành
phố Hồ Chí Minh đã phạm pháp vì không cho tôi xuất cảnh. Tôi cũng
hoàn toàn có quyền và có thể kiện Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra trước Hội đồng Nhân quyền (HRC) của Liên Hiệp Quốc về sự vi phạm này, tương tự như các vụ Peltonen kiện nhà nước Phần Lan (mã số 4922/92) hay vụ Celepli kiện nhà nước Thụy Điển (mã số 456/91)…
Cũng trong trường hợp này, tôi sẽ yêu cầu HRC xem xét
nghiêm minh, yêu cầu Chính phủ Việt Nam nghiêm trị hành vi phạm pháp, tôn trọng công ước quốc tế, tôn trọng hiến pháp của chính nhà nước này và có những biện pháp thích
đáng để không xảy ra những vụ phạm pháp tương tự với mọi công dân Việt Nam.
Vụ việc ngăn chặn xuất cảnh đối với tôi lại lồng trong khung cảnh nhiều chủ đề về quyền con người ở Việt Nam về dân sinh, dân quyền và chính trị vẫn còn thụt lùi sâu sắc, bất chấp rất nhiều hứa hẹn “sẽ cải thiện” từ phía một nhà nước Việt Nam đương đại luôn tuyên xưng “của dân, do dân và vì dân”.
Việt Nam đương đại ấy vừa chợt lóe chút hy vọng bởi bản thông điệp đầu năm của Thủ tướng chính phủ với 20 lần từ “dân chủ” được viện dẫn, cùng các khái
niệm mang chỉ dấu cải cách nhất thời như “đổi mới thể chế”, “xóa độc quyền”, và đặc biệt là cụm từ “nắm chắc ngọn cờ dân chủ” và “người dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”.
Nếu những gì được xem là “thành
tâm chính trị” cần và phải được thể hiện đúng thời điểm và không còn cơ hội cho sự chậm trễ, thái độ đó cần phải bứt phá và vượt bỏ những rào cản bảo thủ và cực đoan, không để bất cứ một thế lực nào tìm cách
ngăn trở con đường dân tộc Việt Nam hội nhập toàn vẹn với thế giới, đặc biệt hòa nhập và hòa giải về các quyền con người.
Hôm nay 5/2/2014, đúng vào ngày cuộc UPR về nhân quyền Việt Nam diễn ra ở Genève, tôi
chính thức viết “Thư khiếu nại về ngăn chặn công dân Phạm Chí Dũng xuất cảnh” gửi đến Ngài Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng chính phủ cùng các cơ quan liên quan
là Bộ Ngoại giao và Bộ Công an Việt Nam.
Trên căn bản Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 14 điều cam kết của Nhà nước Việt Nam trước Đại hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, tư cách thành viên
Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc của Nhà nước Việt Nam, Hiến pháp và các
văn bản liên quan của Việt Nam về xuất nhập cảnh, tôi đề nghị cá nhân tôi và những trường hợp như tôi phải được Nhà nước Việt Nam giải quyết thủ tục xuất cảnh và nhập cảnh một cách tôn trọng theo các quyền công dân,
không bị sách nhiễu hoặc bị xúc phạm bởi bất cứ một hành vi tùy tiện hoặc trái pháp luật nào từ bất cứ cơ quan quản lý nào.
Ngày 5 tháng 2 năm 2014
Phạm Chí Dũng
Nhà báo độc lập
Địa chỉ: 298/4 Nguyễn Trọng Tuyển, Phường 1, quận Tân Bình, TP.HCM
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền