THƯ
ĐIỀU TRẦN NHÂN QUYỀN TẠI VIỆT NAM
Vạch trần bộ mặt thật của đảng cộng sản Việt Nam
http://www.youtube.com/watch?v=s0R378Z2ksA
Kính gửi:
Hội
đồng nhân quyền Liên hiệp quốc
Đồng kính gửi:
- Văn phòng Cao
ủy nhân quyền Liên hiệp quốc (OHCHR)
- Tổ chức Giám sát nhân quyền Liên hiệp quốc (UN Watch)
- Ban tổ chức Hội thảo “Trách nhiệm của Việt Nam trong
vai trò thành viên Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc”
– Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Vừa có thêm một bằng chứng sống động nữa về khoảng cách
biệt khó che giấu giữa tư duy và cách hành xử về điều được coi là “luôn bảo đảm
các quyền con người” của Nhà nước Việt Nam với những tiêu chí nhân quyền có giá
trị thực tế hơn rất nhiều của Liên hiệp quốc.
Bằng chứng sống động đó vừa ứng vào trường hợp của tôi – Phạm
Chí Dũng, một nhà báo độc lập ở Việt Nam.
I. Nhận thư mời từ UN Watch, một tổ chức phi chính phủ Thụy
Sĩ có chức năng giám sát các vấn đề nhân quyền và dân chủ thuộc Liên hiệp quốc,
tôi đã làm thủ tục visa và đã có vé máy bay để đến Genève tham dự cuộc hội thảo “Trách
nhiệm của Việt Nam trong vai trò thành viên Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc”
vào ngày 4/2/2014, bên cạnh cuộc Kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền Việt
Nam (UPR) diễn ra tại Genève vào ngày 5/2/2014.
Là một trong những diễn giả của cuộc hội thảo trên, bài tham luận
của tôi sẽ đặt vấn đề về “Vai trò của các NGO nhằm thúc đẩy nhân quyền cho
Việt Nam”, trong đó cần kíp xây dựng một mạng lưới liên kết giữa các
NGO quốc tế và các nhóm dân sự Việt Nam nhằm thúc đẩy các vấn đề về quyền con
người.
Thấu hiểu hoàn cảnh rất khó được xuất cảnh của tôi, ngày
29/1/2014, Văn phòng Cao ủy nhân quyền Liên hiệp quốc đã gửi văn thư cho Bộ
Ngoại giao Việt Nam, đại diện thường trực của Chính phủ Việt Nam tại Genève và
đại sứ Việt Nam tại Bangkok, đề nghị hỗ trợ đầy đủ cho chuyến đi của tiến sĩ
Phạm Chí Dũng.
Văn thư này cũng nêu rõ một trong những yêu cầu chủ yếu của cuộc
Kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền Việt Nam là sự tham gia của xã hội dân
sự, và Liên hiệp quốc khuyến khích các nhóm dân sự và cá nhân Việt Nam tham dự
cuộc kiểm điểm này.
Những tin tức mà tôi nhận được cũng cho thấy Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ đã đề nghị Bộ Ngoại giao Việt Nam tạo thuận lợi cho chuyến đi Genève của
tôi.
Trước tấm chân tình và những tương tác tiến bộ của cộng đồng
quốc tế cùng giới hoạt động vì quyền con người ở Việt Nam, không thể khác là
trong tôi mang nặng tình cảm xúc động và hàm ơn.
Nhưng bất chấp những vận động nhiệt tình và thiện ý của cộng
đồng quốc tế, chuyến bay đi Genève của tôi vào ngày 1/2/2014 từ sân bay Tân Sơn
Nhất đã bị ngăn chặn. Tại sân bay này, Cục quản lý xuất nhập cảnh của Bộ Công
an và cơ quan an ninh của Công an TP. Hồ Chí Minh đã thông báo miệng với tôi
rằng “hội thảo ở Thụy Sĩ có thể bị các thế lực thù địch lợi dụng nhằm xuyên tạc
và nói xấu nhà nước Việt Nam”, đồng thời những cơ quan an ninh này lập biên bản
thu giữ hộ chiếu của tôi.
Trước đây vào tháng 8/2012, tôi cũng đã bị Công an TP. Hồ Chí
Minh khuyến cáo “không nên đi” khi tôi được mời dự Hội thảo mùa hè ở Singapore
về cải cách kinh tế Việt Nam. Việc không đồng ý với khuyến cáo của cơ quan an
ninh cũng được hiểu là đương sự hoàn toàn có thể bị ngăn chặn tại sân bay nếu
vẫn giữ nguyên kế hoạch xuất cảnh.
Gần đây nhất vào giữa tháng Giêng năm 2014, một blogger ở TP. Hồ
Chí Minh là Thành Nguyễn đã bị cơ quan an ninh cửa khẩu ngăn chặn chuyến bay
tới Mỹ, dù blogger này đã được tòa lãnh sự Hoa Kỳ cấp visa. Theo blogger Thành
Nguyễn, phía cơ quan an ninh chỉ đưa ra một lý do rất mơ hồ trong việc ngăn
chặn là “bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội’.
Theo thống kê sơ bộ của giới hoạt động dân chủ và nhân quyền ở
Việt Nam, từ đầu năm 2013 đến nay đã có khoảng 10 trường hợp cá nhân bị ngăn
chặn xuất cảnh tại các cửa khẩu, tương tự vụ việc của tôi.
Cũng có thông tin trong giới hoạt động dân chủ và nhân quyền ở
Việt Nam cho biết hiện đang tồn tại một danh sách lên đến khoảng 2,000 người bị
cơ quan an ninh cấm xuất cảnh, trong đó nhiều trường hợp bị ngăn chặn thuộc về
các cựu tù nhân lương tâm và những người bất đồng chính kiến.
II. Ngay trước thềm
UPR diễn ra ngày 5/2/2014 tại Thụy Sĩ, hành động các cơ quan an ninh Việt Nam
ngăn chặn việc xuất cảnh đối với tôi đã vi phạm nghiêm trọng quyền tự do đi lại
của công dân – được ghi nhận tại điều 12 của Công ước Quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị mà Việt Nam đã tham gia từ năm 1982; vi phạm nghiêm trọng Điều
23 của Hiến pháp Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/1/2014 mà theo đó “Công dân
có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước
ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Với tư cách một công dân, tôi không vi phạm bất cứ quy định nào
về pháp luật xuất nhập cảnh ở Việt Nam. Tôi cũng chưa từng được cơ quan an ninh
thông báo về cá nhân tôi không được xuất cảnh.
Vô tình hay hữu ý, hành động ngăn chặn xuất cảnh như trên đã làm
xấu đáng kể hình ảnh của Nhà nước Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, chứng minh
không thể sinh động và cập nhật hơn về việc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam –
một thành viên vừa được bầu của Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp quốc – lại vừa
ngang nhiên vi phạm các cam kết về nhân quyền của Liên hiệp quốc, vi phạm Công
ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, đồng thời vi phạm hiến pháp của chính nhà
nước này.
Tuy vấn đề xuất cảnh của cá nhân tôi chỉ rất nhỏ bé, song vụ
việc ngăn chặn xuất cảnh đối với tôi lại lồng trong khung cảnh nhiều chủ đề về
quyền con người ở Việt Nam về dân sinh, dân quyền và chính trị vẫn còn thụt lùi
sâu sắc, bất chấp rất nhiều hứa hẹn “sẽ cải thiện” từ phía một nhà nước luôn
tuyên xưng “của dân, do dân và vì dân”.
Trong trường hợp cần thiết, tôi sẵn lòng phác tả về bức tranh
nhân quyền mang sắc màu u ám trong một Việt Nam đương đại.
Lồng trong khung cảnh thụt lùi sâu sắc về nhân quyền như thế, nhiều
công dân Việt Nam như tôi đang khắc khoải mong đợi những tác động đủ mạnh và đủ
ý nghĩa từ cộng đồng nhân quyền quốc tế, đặc biệt là cuộc UPR sắp tới, hầu mong
có thể phần nào cải thiện não trạng và cải hóa hành vi đối xử nhân quyền của
nhà nước và các cơ quan an ninh Việt Nam.
Hơn lúc nào hết, ý nghĩa của những tác động quốc tế khó có thể
tách rời tương lai định chế Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
(TPP) mà Nhà nước Việt Nam có thể được chấp thuận tham gia hay không, lồng
trong bối cảnh quốc gia này đã chìm trong cơn suy thoái kinh tế kéo dài hơn 6
năm và phía trước là một cuộc khủng hoảng rất khó tránh thoát.
Thư điều trần này được gửi đến Hội đồng nhân quyền Liên hiệp
quốc và các tổ chức quốc tế liên quan, với lòng kính trọng những điều mà quý vị
đang cống hiến cho nền dân chủ và nhân quyền trên toàn cầu.
Việt Nam ngày 2 tháng 2 năm 2014
Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng
(đã ký)
Tuyên bố của Diễn đàn Xã hội Dân sự
Phản đối việc công an thành phố Hồ Chí Minh ngăn
cản Ts. Phạm Chí Dũng xuất cảnh
Ngày 1-2-2014 Ts. Phạm Chí Dũng ra sân bay Tân Sơn Nhất để lên
đường đi dự Hội thảo về nhân quyền và dân chủ, bên cạnh cuộc Kiểm điểm định kỳ
phổ quát về nhân quyền Việt Nam tại Geneve theo lời mời của tổ chức UN-Watch đã
bị công an thành phố Hồ Chí Minh ngăn cản không cho xuất cảnh.
Hành động này của công an thành phố Hồ
Chí Minh đã vi phạm nghiêm trọng Điều 23 của Hiến pháp vừa có hiệu lực từ
1-1-2014 mà theo đó “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước,
có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này
do pháp luật quy định”; đã vi phạm nghiêm trọng quyền tự do đi lại của công
dân được ghi nhận tại điều 12 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị mà Việt Nam đã tham gia từ năm 1982; đã bôi nhọ danh dự của Việt Nam trước
cộng đồng quốc tế vì nó cho thấy Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam một thành
viên vừa mới được bầu của Hội đồng nhân quyền của Liên Hiệp quốc đã trắng trợn
vi phạm nhân quyền, vi phạm công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, vi phạm
hiến pháp của chính mình.
Biên bản số 166/BB-A72-TSN ngày 1-2-2014 đã viện đến đề nghị của
Công an thành phố Hồ Chí Minh không cho Ts. Phạm Chí Dũng xuất cảnh dựa vào
Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17-7-2007 của Chính phủ.
Điều 21 của Nghị định 136/2007/NĐ-CP quy định: “Công dân Việt
Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh nếu thuộc một trong những trường hợp sau
đây:
1. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công
tác điều tra tội phạm.
2. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự.
3. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế; đang chờ
để giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh tế.
4. Đang có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính, nghĩa vụ nộp thuế và những nghĩa vụ khác về tài chính trừ trường hợp có
đặt tiền, đặt tài sản hoặc có biện pháp bảo đảm khác để thực hiện nghĩa vụ đó.
5. Vì lý do ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm lây lan.
6. Vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
7. Có hành vi vi phạm hành chính về xuất nhập cảnh theo quy định
của Chính phủ”.
Theo Điều 21 rõ ràng các điểm từ 1 đến 5 và điểm 7 không áp dụng
được trong trường hợp này và chỉ có thể viện vào “lý do bảo vệ an ninh
quốc gia” một nửa của điểm 6 mà thôi.
Điểm 3 của Điều 12 của Công ước về quyền dân sự và chính trị nêu
rõ các quyền này sẽ “không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế
do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức
khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của người khác, và phải phù hợp
với những quyền khác được Công ước này công nhận.”
Điều 12 của Hiến pháp quy định “Nước cộng hòa xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam … tuân thủ Hiến chương Liên hiệp quốc và điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…” Như thế, những sự hạn
chế quyền tự do đi lại phải do luật định mà Nghị định 136/2007/NĐ-CP không phải
là luật và không thể viện dẫn đến Nghị định này để cản trở Ts. Phạm Chí Dũng
hay bất cứ công dân khác nào xuất cảnh.
Ngay cả giả như có thể áp dụng Nghị định 136/2007/NĐ-CP thì hành
động ngăn cản này cũng đã vi phạm thủ tục của chính Nghị định đó. Khoản 1
của Điều 22 Nghị định trên quy định thẩm quyền quyết định chưa cho công dân
xuất cảnh như sau: chỉ có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án hay cơ quan
thi hành án có thể quyết định chưa cho xuất cảnh theo các khoản 1,2 và 3 của
Điều 21; Bộ trưởng và chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định chưa
cho xuất cảnh theo khoản 4 Điều 21; Bộ trưởng Bộ Y tế theo khoản 5; Bộ trưởng
Bộ Công an theo khoản 6; và Thủ trưởng cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công
an quyết định chưa cho xuất cảnh đối với những người nêu tại khoản 7 của Điều
21 nêu trên.
“Đề nghị của công
an thành phố Hồ Chí Minh” như được viện dẫn trong biên bản 166/BB-A72-TSN (đã
nêu trên) không phải là quyết định của công an thành phố Hồ Chí Minh (trong
trường hợp này công an thành phố Hồ Chí Minh cũng chẳng có thẩm quyền ấy mà chỉ
Bộ trưởng Bộ công an mới có thẩm quyền), thế nhưng người ký quyết định
chưa cho xuất cảnh trong biên bản trên lại là thượng tá Phạm quốc Hùng, phó
trưởng Đồn công an của khẩu Tân sơn Nhất. Như thế quyết định nêu trong biên bản
166/BB-A72-TSN là một quyết định hành chính hoàn toàn trái pháp luật.
Vì những lý do trên Diễn đàn Xã hội Dân sự cực lực lên án công
an thành phố Hồ Chí Minh đã phạm pháp trong việc cản trở Ts. Phạm Chí Dũng xuất
cảnh và yêu cầu:
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ công an nghiêm trị những kẻ đã
có hành vi phạm pháp đối với Ts Phạm Chí Dũng cũng như đã ngăn chặn xuất cảnh
một cách trái pháp luật đối với một số người khác.
Ts. Phạm Chí Dũng hoàn toàn có quyền kiện công an thành phố Hồ
Chí Minh đã phạm pháp trong trường hợp này và trong trường hợp đó chúng tôi yêu
cầu tòa án xử nghiêm minh.
Ts. Phạm Chí Dũng hoàn toàn có quyền kiện Cộng Hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam ra trước Hội đồng Nhân quyền (HRC) của Liên Hiệp Quốc về sự vi
phạm này, tương tự như các vụ Peltonen kiện nhà nước Phần Lan (mã
số 4922/92) hay vụ Celepli kiện nhà nước Thụy Điển(mã số 456/91)
vv… và trong trường hợp này chúng tôi yêu cầu HRC xét xử nghiêm minh.
Trong mọi trường hợp, Diễn đàn Xã hội Dân sự bày tỏ sự đoàn kết với
Ts. Phạm Chí Dũng và kêu gọi tất cả mọi người ủng hộ Ts. Phạm Chí Dũng và mạnh
mẽ lên án sự phạm pháp của công an thành phố Hồ Chí Minh, lên tiếng yêu cầu
Chính phủ Việt Nam nghiêm trị những kẻ phạm pháp, tôn trọng công ước quốc tế,
tôn trọng hiến pháp và có những biện pháp thích đáng để không xảy ra những vụ
phạm pháp tương tự với mọi công dân Việt Nam.
Ngày 2-2-2014
Diễn đàn Xã hội Dân sự
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền