Sunday, February 2, 2014

Đoàn đại diện dân sự độc lập Việt Nam tường trình nhân quyền tại Brussels

Đoàn đại diện dân sự độc lập Việt Nam tường trình nhân quyền tại Brussels


Bài Chửi Mất Nước - Giọng đọc: Cát Bụi


10 thành viên quốc gia của 2 tổ chức EU với 87 thành viên cá nhân tham dự

Dân Làm Báo - Sau khi buổi sinh hoạt đầu tiên của chặng đường Brussels - Geneva với bà Annemie Neyts-Uyttebroeck, Nghị viên châu Âu và bà Therese Murdock thuộc Liên minh Dân chủ và Tự do châu Âu vào ngày 28 tháng 1 năm 2014 (1), các đại diện của Mạng Lưới Blogger Việt Nam, Dân Làm Báo, Voice, No-U Việt Nam, Con Đường Việt Nam, Hội Phật giáo Hòa Hảo Truyền thống, Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Namđã có nhiều buổi làm việc khác nhau với nhiều tổ chức quốc tế vào ngày hôm sau - 29 tháng 1, 2014 tại Brussels, Bỉ.

9am-10.30 am, tại trụ sở chính của Hội đồng Châu âu - EU Council: Tổ chức một buổi điều trần về tình hình nhân quyền tại Việt Nam với Nhóm làm việc về Nhân quyền và Nhóm làm việc về Châu Á và Châu Úc của Hội đồng châu Âu.

Hai nhóm này là cơ chế được thành lập bởi Hội đồng châu Âu vào năm 1987, gồm đại diện từ tất cả các nước thành viên của Liên minh châu Âu. Tổng cộng có 10 thành viên quốc gia với 87 thành viên cá nhân tham dự buổi điều trần này của phái đoàn dân sự độc lập của Việt Nam.

Bắt đầu cho buổi sinh hoạt, 3 đại diện của đoàn Việt Nam có mặt tại Bỉ (các thành viên khác trên đường đến Geneva để chuẩn bị cho UPR) đã trình bày tổng quát về tình hình nhân quyền Việt Nam, xu hướng đàn áp của nhà nước Việt Nam đối với các quyền tự do cơ bản của người dân. Đoàn cũng đã trình bày về sự phát triển của xã hội dân sự, của truyền thông độc lập và hoạt động ngày càng mạnh mẽ về Nhân quyền tại Việt Nam.

Sau phần trình bày, đoàn Việt Nam đã nhận được khoảng 30 câu hỏi từ 10 nước thành viên bao gồm các lĩnh vực nhân quyền, đặc biệt tập trung vào các quyền dân sự và chính trị ở Việt Nam. Cụ thể là Pháp hỏi về việc thay đổi Hiến Pháp có tạo không gian cho sự thay đổi không? Hòa Lan hỏi về quyền của những người đồng tính. Ba Lan hỏi về các rủi ro của phái đoàn có thể gặp sau khi trở về Việt Nam. Anh hỏi về tự do ngôn luận, tự do internet và án tử hình. Đức hỏi về các hoạt động hậu UPR và đặc biệt đã đánh giá cao cuộc gặp của phái đoàn trong nước với sứ quán Đức tại Hà Nội trước thềm UPR vào tháng 1 vừa rồi. (2)

Tất cả phần trình bày, câu hỏi, trả lời đã được thực hiện bằng tiếng Anh.

Sự tham dự của 10 nước thành viên với hơn 80 người và những câu hỏi được đặt ra chứng tỏ Liên minh châu Âu rất quan tâm đến tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Chính vì thế, thời gian buổi làm việc đã kéo dài hơn dự định 30 phút.

Bên cạnh Danlambao đưa tin, tổ chức Frontline cũng cho Danlambao biết là họ cũng sẽ thực hiện một phóng sự về buổi sinh hoạt này trên trang nhà của họ.
Nguyễn Anh Tuấn, Trịnh Hội, ông Engelbert Theuermann, chủ tịch Nhóm làm việc về Nhân quyền của Hội đồng Châu Âu, Đoan Trang và ông Boguslaw Majewski, chủ tịch Nhóm làm việc về châu Á và châu Úc của Hội đồng Châu Âu.

Ghi chú: Đây là một buổi điều trần "kín" - closed hearing cho nên nguyên tắc của BTC là không chụp hình bên trong hiện trường.
11am - 1 pm, tại văn phòng của tổ chức Nhân quyền Frontline Defenders - Những người Bảo vệ Tuyến đầu. Làm việc với Human Rights and Democracy Network (Mạng lưới Dân chủ và Nhân quyền), chuyên vận động EU về dân chủ và nhân quyền.

Các tổ chức tham dự gồm có Liên đoàn Quốc tế Nhân Quyền (International Federation for Human Rights - FIDH), Christian Solidarity WorldwideÂn xá Quốc tế (Amnesty International), Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Wathch), Tổ chức Những người Bảo vệ Tuyến đầu (Front Line Defenders), BROT (Bread for the World).

Tương tự như những lần trước, các bạn đại diện đã trình bày các hoạt động của phái đoàn trong cuộc vận động kéo dài 1 tháng qua. Xin được nói thêm đây là những tổ chức, đặc biệt là HRW, FIDH, FLD đã luôn luôn quan tâm, theo dõi và thông tin những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam rất nhanh chóng.

Các bạn đại diện của VN chụp hình lưu niệm chung 
với đại diện các NGOs trước trụ sở của Front Line Defenders

Trong dịp này các bạn đại diện đã thay mặt anh chị em blogger, các bạn hoạt động về nhân quyền ngỏ lời cám ơn đến các tổ chức đồng thời có những trao đổi để gia tăng những nỗ lực phối hợp chung trong tương lai.

Đây là một số các sinh hoạt tại Bỉ trước khi các bạn Việt Nam đến Geneva, Thụy Sĩ và đã tổ chức thành công Ngày Việt Nam (3) cũng như đang hoàn tất một số các chương trình vận động khác tại Liên Hiệp Quốc.



__________________________



Ngày Việt Nam tại Geneva


Vietnam UPR - Trong lúc mọi người ở Việt Nam đang chuẩn bị đón giao thừa, phái đoàn đã vừa tổ chức thành công sự kiện Ngày Việt Nam tại Phòng họp XXIV trong khuôn viên trụ sở Liên Hiệp Quốc.

Sự kiện này được các nhóm hội dân sự độc lập trong nước (VOICE, Mạng Lưới Blogger Việt Nam, Dân Làm Báo, Con Đường Việt Nam, Phật Giáo Hòa Hảo Truyền thống, No-U Việt Nam, Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam) phối hợp cùng Tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International), Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch,International Service for Human Rights và CIVICUS đứng ra tổ chức.

Đến dự sự kiện có Phái bộ các nước Hoa Kỳ, Na Uy, Thụy Sĩ, Liên Hiệp Châu Âu cùng đại diện các tổ chức quốc tế về nhân quyền có trụ sở tại Geneva như Văn bút Quốc tế (PEN International), HRW, ISHR...

Ngay sau sự kiện Ngày Việt Nam, phái đoàn đã chia thành hai nhóm. Một nhóm tiếp xúc với Phái bộ Hoa Kỳ, Hungary và Costa Rica (là một trong ba nước troika trong phiên UPR của Việt Nam). Nhóm còn lại làm việc với Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc và văn phòng các Báo cáo viên Đặc biệt về Nhân quyền của tổ chức này.
















Chạnh lòng mẹ anh hùng chúc tết chủ tịch nước


 

HRW : Cần gây áp lực để Việt Nam tôn trọng các cam kết nhân quyền

Cảnh phát Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ngày  5/05 ở công viên  30 Tháng 4, Sài Gòn
Cảnh phát Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ngày 5/05 ở công viên 30 Tháng 4, Sài Gòn
© Dan Lam Bao 2013

Thụy My

Theo Human Rights Watch hôm nay 31/01/2014, các thành viên Liên Hiệp Quốc cần gây áp lực đối với Việt Nam để nước này cam kết cải thiện tình trạng nhân quyền đang rất ảm đạm, tại cuộc Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát về Nhân quyền (UPR) diễn ra tại Genève, Thụy Sĩ ngày 5/2 tới. Đây là tiến trình kiểm điểm bốn năm một lần để đánh giá tình hình nhân quyền của từng quốc gia.



Các báo cáo ca Human Rights Watch v thc tế tình trng nhân quyn Vit Nam đã trình lên Hi đng Nhân quyn Liên Hip Quc hôm 20/06/2013, cũng như báo cáo thường niên ca t chc phi chính ph này v Vit Nam công b hôm 21/01/2014, đu kết lun rng chính ph Hà Ni tiếp tc vi phm mt cách có h thng các quyn căn bn như t do ngôn lun, t do hi hp, t do tín ngưỡng, quyn ca người lao đng, quyn s dng đt và quyn được xét x mt cách công bng.
Chính quyn bt giam nhng người ch trích chính sách Nhà nước và các nhà hot đng dân ch, k c thành viên các t chc xã hi dân s mi được thành lp.
Bà Juliette de Rivero, mt nhân vt có trách nhim ca HRW tuyên b : « Chính ph Vit Nam ha hn rt nhiu v nhân quyn, nhưng thc hin thì rt ít. Bây gi là lúc đ các quc gia thành viên Liên Hip Quc nói rõ rng tình trng này là không th chp nhn được, và gây áp lc đ Hà Ni phi ci thin đáng k cách x s vi người dân ».
Vit Nam được bu làm thành viên Hi đng Nhân quyn Liên Hip Quc vào ngày 12/11/2013, và đã chp nhn nghĩa v « duy trì các tiêu chun cao nht trong vic xúc tiến và bo v nhân quyn », theo như quy đnh trong ngh quyết 60/251 ca Đi hi đng Liên Hip Quc.
HRW nhc li, trong chiến dch ng c vào Hi đng Nhân quyn, Vit Nam đã cam kết tôn trng các quyn con người thông qua vic thc hin c th Hiến pháp và các b lut đã có. Hôm 07/11/2013, Vit Nam đã ký kết Công ước Liên Hip Quc chng tra tn nhưng chưa phê chun.
Theo HRW, các công dân Vit Nam kêu gi ci cách đã b trù dp thng thng. Nhiu nhóm thúc đy dân ch và nhân quyn mi được thành lp như nhóm Kiến ngh 72, Mng lưới Blogger Vit Nam, Din đàn Xã hi Dân s, Ph n Nhân quyn Vit Nam đã công khai t cáo vic leo thang trn áp trong nhng năm qua.
Vào đu tháng 12/2013, lc lượng an ninh đã gii tán thô bo các cuc tp hp ôn hòa ti Hà Ni và Thành ph H Chí Minh đ k nim ngày Quc tế Nhân quyn, trong lúc các nhà hot đng c gng phân phát các bn Tuyên ngôn Quc tế Nhân quyn và Công ước chng tra tn. Tiếp theo là mt lot tn công vào các blogger, các nhà hot đng dân ch và dân oan khiếu kin đt, đôi khi ngay ti nhà ca h. Chính ph cũng ngăn tr các thành viên xã hi dân s ri Vit Nam đ đến Genève tham d cuc điu trn UPR.
Bà Juliette de Rivero khuyến cáo : « Hi đng Nhân quyn Liên Hip Quc cn đng bên cnh các nhà hot đng dũng cm, dám thách thc chính quyn đc đng đ chm dt các v lm dng. Các chính ph cũng nên công khai gây áp lc đi vi Vit Nam đ cùng vi xã hi dân s thc hin nhng nghĩa v v nhân quyn, và cho phép người dân Vit đòi hi nhng thay đi căn bn mt cách ôn hòa ».

Liu Tiến sĩ Phm Chí Dũng đến được Genève d điu trn v nhân quyn?

Nhà bình luận Phạm Chí Dũng.
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng.
DR

Thy My

Nhn li mi t UN Watch, mt t chc phi chính ph Thy Sĩ có chc năng giám sát các vn đ nhân quyn và dân ch thuc Liên Hip Quc, nhà báo đc lp, tiến sĩ Phm Chí Dũng d kiến s có chuyến đi Genève vào ngày 01/02/2014 t sân bay Tân Sơn Nht đ tham d mt cuc hi tho v dân ch và nhân quyn, bên cnh cuc Kim đim Đnh kỳ Ph quát (UPR) v nhân quyn ti Vit Nam din ra ti Genève ngày 05/ 02/2014.

Được gii thiu như mt trong nhng din gi chính ca cuc hi tho trên, bài tham lun ca tiến sĩ Phm Chí Dũng s đt vn đ v “Vai trò ca các NGO nhm thúc đy nhân quyn cho Vit Nam”. Bài tham lun này là bc tranh phác tho v hin tình kinh tế - xã hi - chính tr Vit Nam cùng nhng tin đ cho xã hi dân s ti quc gia này. Đng thi nêu ra mt s d báo cho năm 2014 và xu hướng nhng năm sau đó, đt vn đ v s cn kíp xây dng mt mng lưới liên kết gia các NGO quc tế và các nhóm dân s Vit Nam nhm thúc đy các vn đ v quyn con người.
Ngày 29/01/2014, Văn phòng Cao y Nhân quyn Liên Hip Quc đã gi văn thư cho B Ngoi giao Vit Nam, đi din thường trc ca Chính ph Vit Nam ti Genève và đi s Vit Nam ti Bangkok, đ ngh h tr đy đ cho chuyến đi ca TS Phm Chí Dũng. Văn thư này cũng nêu rõ mt trong nhng yêu cu ch yếu ca cuc Kim đim Đnh kỳ Ph quát v nhân quyn Vit Nam là s tham gia ca xã hi dân s, và Liên Hip Quc khuyến khích các nhóm dân s và cá nhân Vit Nam tham d cuc kim đim này.
Được biết B Ngoi giao Hoa Kỳ cũng đã đ ngh B Ngoi giao Vit Nam to thun li cho chuyến đi Genève ca tiến sĩ Phm Chí Dũng.
Tuy nhiên, mt câu hi thách đ đi vi cá nhân tiến sĩ Phm Chí Dũng và gii hot đng dân ch Vit Nam nói chung là liu ông có được xut cnh theo li mi ca UN Watch đến Genève hay không.
Vào ln này, cũng đã xut hin tín hiu “vn đng” ca cơ quan an ninh Sài Gòn đi vi gia đình TS Phm Chí Dũng v vic ông “không nên đi Thy Sĩ đ tránh b li dng”. Đến ngày 31/01/2014 (mùng mt tết), mt nhân viên công an ca phường 1, qun Tân Bình là đa bàn TS Phm Chí Dũng cư trú, đã đến nhà ông đ đưa giy mi ông đến tr s công an phường vi lý do “làm vic” vào sáng ngày 01/02/2014 (mùng 2 tết). Người ký giy mi là đi tá Nguyn Thành Dân - trưởng phòng PA81 thuc Công an TP.HCM.
Cn nhc li, vào tháng 8/2012 tiến sĩ Phm Chí Dũng đã b mt cơ quan an ninh Vit Nam khuyến cáo “không nên đi” khi ông được mi d hi tho mùa hè Singapore v ci cách kinh tế Vit Nam. Vic không đng ý vi khuyến cáo ca cơ quan an ninh cũng được hiu là đương s hoàn toàn có th b ngăn chn ti sân bay, nếu vn gi nguyên kế hoch xut cnh.
Gn đây nht, vào khong gia tháng Giêng năm 2014, mt blogger Sài Gòn là Paulo Thành Nguyn đã b an ninh ca khu ách chuyến bay sang M, dù blogger này đã được tòa lãnh s Hoa Kỳ cp visa. Theo blogger Thành Nguyn, phía cơ quan an ninh ch đưa ra mt lý do rt mơ h trong vic ngăn chn là “bo v an ninh quc gia và trt t an toàn xã hi’.
Theo Hiến pháp Vit nam, mt trong nhng quyn con người được quy đnh là quyn t do đi li, trong đó ghi rõ “Công dân Vit Nam có quyn t do đi li và cư trú trong nước, có quyn ra nước ngoài và t nước ngoài v nước”.
Hành đng “mi làm vic” ca cơ quan công an Sài Gòn ngay trước chuyến đi Thy Sĩ cho thy vn có th xy ra vic c tình ngăn chn TS Phm Chí Dũng, thm chí ngay ti sân bay Tân Sơn Nht, bt chp mi quan tâm đc bit ca các cơ quan quc tế v nhân quyn. Nếu xy ra, hành đng ngăn chn như vy rõ ràng s trái vi các cam kết v nhân quyn ca Nhà nước Vit Nam trước Đi hi đng Liên Hip Quc, khi quc gia này được chp thun là thành viên chính thc ca Hi đng nhân quyn vào tháng 12/2013.
TS Phm Chí Dũng cho biết, nếu chuyến đi Thy Sĩ b ngăn chn bt hp pháp, ông s chính thc khiếu ni đến Th tướng Chính ph và B trưởng B Công an, đng thi thông tin rng rãi cho Liên Hip Quc và các t chc nhân quyn quc tế v v vic này.

Phùng Hoài Ngọc: Thông báo nghỉ sinh hoạt đảng

Phùng Hoài Ngọc - Thực ra, tôi đã hạ bút viết và nộp bản Thông báo này chiều hôm qua 30 Tết, hôm nay chỉ Khai bút đầu xuân bằng Lời tự giới thiệu và giải thích đôi chút.

Tôi chỉ băn khoăn giữa các từ “ra khỏi Đảng”, “rút tên khỏi Đảng”, “từ bỏ Đảng”, “nghỉ sinh hoạt Đảng.” v.v... Nội hàm nói chung giống nhau, chỉ khác nhau ở sắc thái biểu cảm.

Cuối cùng tôi chọn “nghỉ sinh hoạt” theo ý thích riêng.

GNLT Phùng Hoài Ngọc

*
THÔNG BÁO NGHỈ SINH HOẠT ĐẢNG

Kính gửi: Chi bộ khóm Đông Thành,

Phường Đông Xuyên, Tp. Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Tôi tên Phùng Hoài Ngọc sinh ngày 16/11/1951 tại xã Đông La, huyện Hoài Đức, Hà Nội, gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 22/12/1976.

Nghề nghiệp: giảng viên đại học, đã nghỉ hưu.

Thẻ đảng viên số: 31.018890

Năm nay 38 tuổi đảng, tôi xin thông báo với chi bộ, đề nghị xóa tên tôi khỏi Danh sách đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi ít nhất các lý do sau:

1. Tôi chứng kiến sự suy thoái trầm trọng của Đảng dẫn đến hậu quả đất nước khủng hoảng toàn diện, đời sống đại bộ phận nhân dân, công chức khó khăn, tệ nạn xã hội tràn lan, đạo đức xã hội xuống cấp. Tôi nhận thấy nguyên nhân trực tiếp là do sự lãnh đạo của trung ương mắc nhiều sai lầm to lớn, không ít đảng viên có chức trọng quyền cao suy thoái phẩm chất đạo đức, ngay cả Nghị quyết 4 của đảng cũng thừa nhận điều đó. Tuy nhiên khi tôi cùng nhiều đảng viên, cán bộ, trí thức nhiều lần góp ý, kiến nghị với trung ương về những sai lầm của Đảng và hướng giải quyết thì không được tiếp thu.

2. Trong sinh hoạt ở chi bộ cơ sở địa phương, tôi nhận thấy góp ý xây dựng của đảng viên không được cấp trên tiếp nhận, tức là việc sinh hoạt đảng ở cơ sở không có ích gì cho đất nước ngoại trừ việc đóng đảng phí. Không ít đảng viên lặng lẽ tự nghỉ sinh hoạt đảng không cần thông báo với tổ chức đảng hoặc nại ra lý do này khác – thực chất đó là sự thoái đảng không chính thức. Riêng tôi không muốn làm như vậy, nên thấy cần có thông báo chính thức bằng văn bản này.

Tôi đã đóng đảng phí hết ngày 31 tháng 12 năm 2013.

Cuối cùng, tôi chân thành cảm ơn chi ủy Đông Thành đã đối xử tốt với tôi trong thời gian sinh hoạt.

Trân trọng.

Long Xuyên, ngày 30 tháng Giêng năm 2014

Phùng Hoài Ngọc

Ký tên


*********

Đọc thêm:


Huyền thoại: chất dinh dưỡng của độc tài

  •  
  •  
  •  

Tin liên hệ

Ðường dẫn

  • Blog Nguyễn Hưng Quốc
CỠ CHỮ 
25.01.2014
Viết bài “Sự mù quáng vô tận”, tôi không nhắm đến mục tiêu phê phán người dân Trung Quốc. Tôi chỉ muốn chứng minh hai điều:

Một, dù có nhiều điểm tương đồng, giữa độc tài phát-xít và độc tài Mác-xít vẫn có một điểm khác biệt lớn: Trong khi chủ nghĩa phát-xít dựa trên một số niềm tin gắn liền với một số thành kiến về chủng tộc và với một thứ chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, chủ nghĩa Mác-xít lại dựa trên một nền tảng triết học có vẻ rất đồ sộ và nguy nga, nhờ thế, một mặt, nó dễ dàng thuyết phục được giới trí thức, và mặt khác, cũng rất dễ được huyền thoại hóa.

Hai, vì yếu tố huyền thoại ấy, độc tài Mác-xít sống dai dẳng hơn hẳn độc tài phát-xít. Chủ nghĩa phát-xít, lúc còn mạnh, không làm dấy lên một phong trào văn học nghệ thuật tương ứng nào, và khi bị sụp đổ, là sụp đổ hoàn toàn, cả trong hiện thực lẫn trong ký ức. Chủ nghĩa Mác-xít, ngược lại, ngay từ đầu, đã gắn liền với cả một phong trào văn nghệ rộng lớn dưới nhãn hiệu chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, qua đó, thấm nhiễm sâu sắc vào đáy sâu tâm thức của từng người; hậu quả là, ngay cả khi chủ nghĩa cộng sản, với tư cách một thể chế và một ý thức hệ, đã bị phá sản, dư âm của nó vẫn còn lại. Sự kéo dài của dư âm ấy cũng đồng thời là sự kéo dài của họa độc tài.

Sự sùng bái của nhiều người dân Trung Quốc hiện nay đối với thần tượng Mao Trạch Đông của họ chính là một minh chứng hùng hồn cho sự kéo dài ấy.

Hiện tượng ấy lại cho thấy sự khó khăn và gập ghềnh trong tiến trình dân chủ hóa ở khắp nơi, đặc biệt, ở các nước độc tài từng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác.

Liên quan đến vấn đề dân chủ hóa, nói chung, có mấy đặc điểm chính: Một, đó là một xu hướng chung của thế giới. Giới nghiên cứu - đi tiên phong và tiêu biểu nhất là Samuel Huntington - chia tiến trình dân chủ hóa ấy thành từng đợt, giống như đợt sóng, hết đợt thứ nhất (từ khoảng 1810 đến khoảng 1922) đến đợt thứ hai (khoảng 1944-1957), thứ ba (khoảng từ 1974 đến đầu thập niên 1990), và gần đây, với sự sụp đổ của nhiều chế độ độc tài ở Trung Đông và châu Phi, nhiều người lại nói đến đợt sóng dân chủ thứ tư. Hai, tuy nhìn chung, các đợt sóng dân chủ hóa ấy có sức mạnh mãnh liệt, hết càn quét chế độ độc tài ở nước này lại càn quét chế độ độc tài ở nước khác, tiến trình dân chủ hóa vẫn có những thoái trào nhất định: thay vì phát triển theo đường thẳng, nó lại chạy lòng vòng hoặc theo những đường cong đầy khúc khuỷu, như những gì chúng ta đang nhìn thấy ở các nước Hồi giáo Trung Đông và Bắc Phi. Ba, trong sự phát triển của dân chủ, có một số nơi dường như may mắn, ở đó, dân chủ một khi đã xuất hiện cứ ngày một nảy nở xum xuê; ở một số nơi khác, ngược lại, nó cứ còi cọc, quặt quẹo, lúc nào cũng có nguy cơ bị chết héo.

Đặc điểm thứ ba vừa nêu thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà nghiên cứu. Họ đặt câu hỏi: Tại sao? Tại sao dân chủ có thể phát triển dễ dàng ở nơi này hơn ở nơi khác? Tại sao, trên lý thuyết, dân chủ nhắm đến việc phát huy quyền tự do của mỗi người, đáng lẽ mọi người phải hân hoan đón nhận, thế nhưng, ngược lại, nhiều người, rất nhiều người, kể cả những người thiếu tự do nhất, lại dửng dưng, thậm chí, run sợ, muốn quay mặt đi? Tại sao?

Tất cả những câu hỏi tại sao ấy lại dẫn đến một câu hỏi khác: Vậy, điều kiện, hoặc những điều kiện chính của dân chủ là gì?

Câu hỏi này sẽ dẫn đến một câu hỏi khác có tính thực dụng và thực tiễn hơn: Để xây dựng một chế độ dân chủ thực sự, yếu tố nào cần được xây dựng trước?

Trong cuốn Người Đông Á quan niệm về dân chủ như thế nào (How East Asians View Democracy) do Columbia University Press xuất bản năm 2010, các nhà biên tập, Yun-han Chu, Larry Diamond, Andrew J. Nathan và Doh Chull Shin, trong lời giới thiệu, đã chia cuộc hành trình nhận thức về dân chủ thành ba giai đoạn chính:

Thứ nhất, giai đoạn đầu, từ thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, các lý thuyết gia cho rằng có nhiều yếu tố tác động đến quá trình tiến hóa của dân chủ, trong đó, có yếu tố văn hóa chính trị. Đi tiên phong trong giai đoạn này là Dankwart Rustow, người cho rằng cuộc dân chủ hóa nào cũng bắt đầu, trước hết, bằng sự thống nhất của quốc gia, sau đó, bằng việc tranh đấu để chấm dứt sự bất bình đẳng về các phương diện chính trị, kinh tế và xã hội, sau đó, là quyết định xây dựng các thiết chế cần thiết cho dân chủ; và cuối cùng, mọi người, từ trí thức đến bình dân, dần dần làm quen với dân chủ để ứng xử theo các nguyên tắc dân chủ.

Thứ hai, suốt thập niên 1970 và thập niên 1980, không hiểu sao giới nghiên cứu lại xao nhãng yếu tố văn hóa chính trị. Mọi người đều chỉ tập trung vào cấu trúc xã hội, những thay đổi trong giới trí thức và các thiết chế chính trị.

Thứ ba, từ thập niên 1990 đến nay, người ta lại chú ý đến văn hóa chính trị, hơn nữa, xem văn hóa chính trị như là yếu tố trung tâm trong tiến trình dân chủ hóa. Trong cái gọi là văn hóa chính trị ấy, người ta không những chỉ tập trung vào giới trí thức mà còn cả giới bình dân, nếu không muốn nói, đặc biệt là giới bình dân: Chính niềm tin và thái độ của giới bình dân là một trong những yếu tố quyết định vận mệnh của dân chủ.

Nói một cách tóm tắt, hiện nay, phần lớn giới nghiên cứu về chính trị học đều tin là, để có dân chủ, người ta cần có nhiều thứ, ví dụ, một, sự thức tỉnh và dấn thân của giới trí thức; hai, sự phát triển của kinh tế phải đến một mức độ nào đó, để, một mặt, có một tầng lớp trung lưu tương đối mạnh, mặt khác, để mọi người không còn chỉ biết hùng hục lo cho miếng cơm manh áo, những nhu cầu sơ đẳng và nhỏ nhặt hằng ngày; ba, một môi trường quốc tế thích hợp và có tác động tích cực đến xu hướng dân chủ hóa; và bốn, quan trọng nhất, là thái độ của quần chúng.

Nhìn vào tình hình chính trị ở châu Á những năm gầy đây, các nhà nghiên cứu cho rằng hầu hết các nền dân chủ non trẻ ở đây đều gặp thử thách nghiêm trọng. Không kể Trung Quốc, nơi chưa có dân chủ, từ Hong Kong đến Đài Loan, từ Thái Lan đến Mông Cổ, từ Hàn Quốc đến Nhật Bản, ở đâu cũng có những đợt khủng hoảng, với những mức độ khác nhau, về dân chủ.

Lý do chính, theo các tác giả của cuốn Người Đông Á quan niệm về dân chủ như thế nào là vì nền tảng của tính chính đáng của dân chủ ở đó còn rất yếu ớt và mong manh. Một mặt, nhiều người dân vẫn nuối tiếc cái thời độc tài đã qua. Tự do gắn liền với cạnh tranh; cạnh tranh cần sự quyết liệt và có sự hơn thua rõ ràng: Những người thua cuộc, nhất là trong cuộc chạy đua về kinh tế và quyền lực, dễ có tâm lý bất mãn. Tâm lý này, thật ra, cũng rất dễ nhìn thấy ở Nga và Đông Âu hiện nay: người ta thấy cuộc sống dưới chế độ độc tài cộng sản trước đây có vẻ dễ dàng hơn, ở đó, ai an phận nấy, cứ đến tháng lại cầm sổ lương thực đi mua thịt mua cá, không phải tính toán hay cố gắng gì nhiều, dù với cái giá người ta phải trả là mất tự do. Mặt khác, người ta vẫn chưa quen với trò chơi dân chủ, chưa phục tùng quyết định của đa số, vẫn muốn dùng sức mạnh, hoặc bằng bạo lực hoặc của đám đông qua các cuộc xuống đường biểu tình để xóa bỏ kết quả của các cuộc bầu cử.

Điều cuối cùng vừa nêu thấy rõ nhất là ở Thái Lan. Cứ bất mãn chính phủ điều gì là người ta lại xuống đường biểu tình để đòi thay chính phủ, bất chấp sự kiện chính phủ ấy đã chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu trước đó. Xin lưu ý là ở các quốc gia có truyền thống dân chủ lâu dài và vững chắc ở Tây phương, người ta cũng thường xuống đường biểu tình nhưng mục tiêu của các cuộc biểu tình ấy là nhằm để gây sức ép làm thay đổi một số chính sách nào đó chứ không phải là thay đổi bản thân chính phủ. Việc thay đổi chính phủ, người ta để các lá phiếu quyết định.

Ở đây, chúng ta thấy có sự khác biệt quan trọng trong nội dung của văn hóa chính trị ở các nước đã có dân chủ, dù là dân chủ non trẻ và ở các nước chưa có dân chủ. Điều kiện để nuôi dưỡng dân chủ, ở các nước đã ít nhiều có dân chủ, là sự tin tưởng vào thể chế và giới hạn mục tiêu tranh đấu vào lãnh vực chính sách, trong khi đó, ở các nước chưa có dân chủ, điều kiện thiết yếu là sự bất tín nhiệm đối với thể chế hiện hữu và nhắm đến mục tiêu thay đổi thể chế.

Trong trường hợp thứ hai, tiến trình dân chủ hóa ở các nước chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác gặp nhiều khó khăn hơn, chủ yếu, vì áp lực của các huyền thoại giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp vốn được hệ thống tuyên truyền của nhà nước nuôi dưỡng quá lâu. Với các huyền thoại ấy, người ta hoặc vẫn tiếp tục có ảo tưởng vào một tương lai tươi sáng nào đó hoặc đâm ra dễ dàng tha thứ cho các tội ác trong hiện tại, xem chúng như những cái giá cần phải trả cho một thiên đường mai hậu. Đó là chưa kể, vì sống quá lâu dưới ách độc tài, chỉ cần một lời hứa hẹn hoặc một sự thay đổi nho nhỏ, người ta đã thấy thỏa mãn.

Chính sự thỏa mãn ấy là dưỡng khí cần thiết của các chế độ độc tài.

Cơ hội cho Việt Nam

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2014-01-30
 
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
01302014-ddkt.mp3Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
000_Hkg9311350-305.jpg
Một tiệm bán lịch Tết ở Hà Nội hôm 27/12/2013.
AFP photo

Như mục Diễn đàn Kinh tế đã trình bày nhiều lần trong năm qua, việc các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài triệt thoái dần dần khỏi thị trường Trung Quốc đang mở ra cơ hội cho nhiều quốc gia khác. Nhưng Việt Nam lại có thể để lỡ những cơ hội này.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, trong một chương trình phát thanh ngày 14 Tháng Tám năm ngoái, chúng tôi đã nêu vấn đề như trên đây để nói đến những cơ hội mới khi các doanh nghiệp quốc tế triệt thoái khỏi thị trường Trung Quốc. Bước qua năm 2014, và trước khi qua năm Giáp Ngọ, sự thể ấy đã rõ rệt nên chúng ta có gắng nhìn lại toàn cảnh và cả cơ hội cho Việt Nam, ông nghĩ sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng ta biết là phải nêu vấn đề và còn nhắc lại nhiều lần mỗi khi có dịp vì quả thật là thế giới đang bước qua hoàn cảnh mà nhiều người có thể gọi là "thoái Trung" là triệt thoái khỏi Trung Quốc. Mình sẽ bắt đầu từ đó rồi tìm hiểu xem là nếu rút khỏi Trung Quốc thì giới đầu tư quốc tế sẽ tìm đến nơi nào khác, theo điều kiện gì.
Vũ Hoàng: Chúng ta khởi sự từ chuyện "thoái Trung" này vì tuần qua thì tạp chí chuyên đề về kinh tế là tờ The Economist của Anh đã đưa một chủ đề lên trang bìa của số báo là Trung Quốc mấy sự hấp dẫn và các doanh nghiệp nước ngoài khó làm ăn hơn xưa. Vì sao lại như vậy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Hiện tượng này đã có từ nhiều năm qua mà chương trình chuyên đề của chúng ta liên tục nhắc nhở, với nhiều đánh giá rất bi quan về thực trạng và tiềm lực kinh tế của Trung Quốc khi thiên hạ vẫn nói về phép lạ của xứ này. Đến năm qua thì đa số dư luận đã thấy ra những điều ấy. Thứ nhất, đà tăng trưởng của Trung Quốc thiếu phẩm chất và không thể kéo dài. Thứ hai là họ phải chuyển hướng để tránh khủng hoảng và thứ ba, thế giới thấy Trung Quốc hết là hãng xưởng cho các ngành ráp chế nhờ nhân công nhiều và rẻ như trước.
Vì vậy, khi doanh nghiệp đầu tư lần lượt rút chạy thì ta phải hỏi là chạy đi đâu? Và làm sao các nước có thể thu hút được nguồn cung cấp tư bản và kỹ thuật đang rút chạy của thiên hạ làm sức đẩy cho mình? Như mọi nước nghèo vừa bước vào giai đoạn khởi phát hay "cất cánh", Việt Nam cần vốn và kỹ thuật nên phải huy động từ bên ngoài. Các quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, đều trải qua giai đoạn ấy. Khi đó, vấn đề chủ yếu là ta có gì hấp dẫn hơn xứ khác để thu hút đầu tư?
Như mọi nước nghèo vừa bước vào giai đoạn khởi phát hay "cất cánh", Việt Nam cần vốn và kỹ thuật nên phải huy động từ bên ngoài. 
- Nguyễn-Xuân Nghĩa
Vũ Hoàng: Thưa ông, kỳ này thì ta sẽ tập trung vào những điều kiện ông gọi là hấp dẫn đó và nói đến một ngành sản xuất quan trọng cho Việt Nam là dệt sợi và may mặc.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ đấy là một thí dụ tiêu biểu nhất cho thấy Việt Nam có thể đã để lỡ cơ hội vì trong khi thiên hạ đang rút vốn khỏi Trung Quốc và tìm nơi đầu tư có lợi hơn thì năm qua ngành may mặc để xuất khẩu của Việt Nam lại sa sút vì yếu kém nội tại của mình.
Trước tiên, ngay trong ngắn hạn là năm nay thì Việt Nam cần thấy trước nhiều rủi ro biến động trên thế giới khi toàn cầu đang bước qua giai đoạn điều chỉnh và luồng tư bản có thể chảy ngược. Một cách cụ thể thì nền kinh tế phải có quân bình vĩ mô mà Việt Nam lại chưa có vì mắc nợ nước ngoài quá nhiều, dự trữ ngoại tệ quá mỏng, thuộc loại thấp nhất Đông Nam Á.
Điều kiện thứ hai là phải có hạ tầng cơ sở bền vững để tiếp nhận đầu tư về tư bản lẫn kỹ thuật. Hạ tầng cơ sở ấy gồm có nhiều loại. Là vật chất như đường xá cầu cống và cả hệ thống bảo vệ môi sinh, hủy thải phế vật và giữ gìn điều kiện lao động lành mạnh cho công nhân. Hạ tầng đó cũng gồm có bộ máy hành chính công quyền hữu hiệu và liêm minh và hệ thống ngân hàng có thể giải quyết các dịch vụ cần thiết cho sản xuất và xuất khẩu. Trong cả chu trình sản xuất thì hạ tầng cơ sở còn có ý nghĩa tiếp liệu là lấy nguyên nhiên và vật liệu ở đâu để có sản phẩm hoàn tất tung ra thị trường nội địa hay xuất cảng? Và sau cùng, hạ tầng cơ sơ vô hình mà quan trọng nhất là nền tảng luật lệ công khai minh bạch để bảo đảm sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp.

Phụ thuộc Trung Quốc

000_Hkg9407802-250.jpg
Vũ Hoàng: Ông nêu ra những điều kiện hay tiêu chuẩn hấp dẫn từ nền tảng để thu hút đầu tư trong khi nhiều người cứ nghĩ rằng Việt Nam có sự hấp dẫn riêng là nhân công tương đối còn rẻ. Sự thật thì có như vậy hay chăng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ là nên hỏi lại rằng "rẻ so với cái gì"? Thí dụ như phải rẻ nếu so với tay nghề hay hiệu năng cao thấp của công nhân thợ thuyền trong một môi trường ổn định và so với công nhân của các thị trường khác. Một cách thiết thực thì ta có thể so mức lương tối thiểu hàng tháng của công nhân các nước. Giả dụ như đang ở khoảng 100 đô la một tháng tại một xứ bất ổn bên cạnh Việt Nam là Cam Bốt, hoặc chưa tới 40 đô la ở tại Bangladesh, chưa tới 80 đô la bên Lào và khoảng 130 đô la ở Việt Nam. So với quãng 250 hay 300 đô la tối thiểu phải trả cho công nhân Trung Quốc thì Việt Nam có lợi thế rẻ hơn thật, nhưng vẫn kém Lào hay Bangladesh.
Ngoài ra, mình còn phải xét đến nhiều tiêu chuẩn khác trong cả chu trình sản xuất. Hãy tạm nghĩ rộng ra phí tổn của các phương tiện sử dụng là đất đai, máy móc thiết bị, và nguyên nhiên vật liệu lẫn gánh nặng thuế khóa. Người ta cứ cho là nếu giảm thuế hay giữ mức lương thấp thì sẽ thu hút được đầu tư của nước ngoài. Sự thật thì thuế suất cao thấp và trong thời hạn dăm ba năm đầu không là tiêu chuẩn đáng quan tâm nếu công chức tham nhũng và công nhân kém tay nghề và thiếu kỷ luật. Quan trọng hơn cả trong chu trình sản xuất là chuyện lấy vật liệu ở đâu?
Vũ Hoàng: Riêng về chuyện ấy thì ngành may mặc của Việt Nam vẫn phải nhập khẩu vật liệu chính là vải vóc từ Trung Quốc nên thật ra kiếm lời rất ít. Ông nghĩ sao về sự kiện này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi cho rằng đấy là nhược điểm tiêu biểu của hệ thống lãnh đạo.
Xin bắt đầu từ việc phân định ra từng công đoạn sản xuất thí dụ như áo quần để bán cho các thị trường Âu Mỹ theo kiểu dáng và mẫu mã của họ. Qua mỗi công đoạn thì ta có thêm một phần trị giá gia tăng, rồi tổng cộng lại ngần ấy trị giá đóng góp thì mình mới có mức lời về kinh tế cho quốc gia và kinh doanh cho doanh gia. Muốn sản xuất áo quần thì ta không chỉ cần mẫu mã, máy móc hay tay nghề rất rẻ của công nhân mà còn cần nguyên liệu, cơ bản như bông vải chẳng hạn.
Việt Nam thiếu cả khu vực phù trợ ngành sản xuất hàng may mặc, cụ thể là bông nội địa chỉ đủ cho 1% của yêu cầu và vải nội địa chỉ đủ cho 10% nên vẫn phải nhập. Nguồn cung cấp chính yếu lại là Trung Quốc. Từ bông sang vải qua tới áo quần đạt tiêu chuẩn của quốc tế thì Việt Nam chỉ nắm được công đoạn cuối nên hưởng phần trị giá gia tăng rất giới hạn. Ngoài ra, phải nói thêm rằng bông vải do Việt Nam sản xuất lấy vẫn kém về phẩm chất và thật ra lại đắt hơn bông vải của Trung Quốc nên doanh nghiệp làm gia công của Việt Nam vẫn ưa nguyên liệu Trung Quốc hơn và ngành may mặc của Việt Nam vì vậy vẫn lệ thuộc vào Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Nhưng vì sao ông lại cho rằng đó là nhược điểm tiêu biểu của hệ thống lãnh đạo?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Người ta cứ nói rằng lãnh đạo là tiên liệu, lãnh đạo Việt Nam không biết tiên liệu nên chẳng thúc đẩy sự hình thành của cả khu vực phù trợ các ngành sản xuất hàng tiêu dùng có khả năng tuyển dụng cao. Chính quyền và các tập đoàn kinh tế nhà nước không mấy thiết tha xây dựng cả chu trình sản xuất qua từng bước cải tiến vì tay chân của nhà nước kiếm ra bổng lộc quá ít trong từng công đoạn ấy, thí dụ như từ trồng bông đến xe chỉ và dệt vải. Họ dồn sức vào các dự án lớn loại Vinashin hay Vinalines vì kiếm được nhiều tiền hơn mà quên hẳn số phận của cả triệu nông dân và công nhân ở dưới.
Ngoài ra, khi nhìn qua viễn ảnh phát triển ngoại thương nhờ hiệp định đối tác Xuyên Thái bình dương TPP có hy vọng thành hình trong năm nay thì ta không quên là các nước trong khối TPP đều nhìn vào xuất xứ của sản phẩm được lọt ải thuế quan. Hàng hóa Việt Nam mà có tỷ trọng xuất xứ quá lớn từ một nước bên ngoài khối TPP như Trung Quốc thì sẽ bị gạt ra ngoài. Chuyện ấy quả là đáng buồn cho Việt Nam và lãnh đạo xứ này phải duyệt lại chính sách của họ.
Vũ Hoàng: Thưa ông, chúng ta còn vài ngày nữa là bước qua năm Giáp Ngọ. Nếu có vài lời tâm nguyện hay cầu chúc cho Việt Nam trong năm mới thì ông muốn gửi gấm những gì?
Người ta cứ nói rằng lãnh đạo là tiên liệu, lãnh đạo Việt Nam không biết tiên liệu nên chẳng thúc đẩy sự hình thành của cả khu vực phù trợ các ngành sản xuất hàng tiêu dùng có khả năng tuyển dụng cao. 
- Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nói về năm Ngọ và con ngựa thì tôi nghĩ rằng trong gần trăm năm qua, Việt Nam phạm một sai lầm lớn là mặc nhiên làm con ngựa chiến thành Troy cho Trung Quốc. Ngựa chiến thành Troy là một truyền thuyết của Hy Lạp thời cổ khi một phe để lại con ngựa gỗ, bên trong có những chiến binh nửa đêm bước ra ngoài mở cổng thành cho địch xâm nhập.
Việt Nam đã gây cảnh tương tàn Quốc Cộng rồi Nam Bắc trong ba chục năm, tới khi chiến tranh kết thúc thì mới thấy Trung Quốc chiếm lợi rất lớn và chiếm luôn chủ quyền trên đất liền và biển đảo ngoài khơi qua nhiều đợt xung đột vào các năm 1974, 1979 và 1988. Trong lĩnh vực kinh tế ngày nay, Việt Nam tiếp tục làm con chiến mã cho Trung Quốc khi doanh nghiệp Việt Nam mua hàng Trung Quốc và dán nhãn "Made in Vietnam" lên trên để bán cho thiên hạ.
Thế giới có thiện cảm với dân tộc Việt Nam nên sẵn sàng nâng đỡ kinh tế xứ này nhưng sẽ ngần ngại nếu Việt Nam tiếp tục sai lầm cũ. Ta cũng không quên rằng Á Châu còn nhiều quốc gia khác ngoài Trung Quốc và giới trẻ tại Việt Nam có tiềm năng hợp tác và học hỏi từ các quốc gia này chứ sẽ không mãi mãi cúi đầu. Vì vậy, lời cầu chúc đầu năm của tôi là người Việt sớm thoát khỏi cái kiếp trâu ngựa cho một xứ lân bang có quá nhiều ảnh hưởng lên lãnh đạo ở Hà Nội.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông về cuộc phỏng vấn này và kính chúc ông qua năm mới được an lạc.

VN có khoảng 700 đảng viên CSVN có tài sản từ 100 đến 300 triệu đô la
Một thành viên cao cấp của Hội đồng mậu dịch Việt - Mỹ tiết lộ đảng CSVN được xem là một tỉ phú hàng đầu của thế giới vào năm 1995 với tài sản ước lượng lên đến 20 tỉ đôla…VN hiện nay có khoảng từ 80 đến 100 người có tài sản trên 300 triệu đô la, tất cả các tỉ phú này đều là cán bộ cao cấp của đảng.

“Ông John Shapiro, một cựu chiến binh Hoa kỳ sau 3 tuần lễ thăm VN để tính chuyện làm ăn buôn bán, phát biểu rằng các ông lớn trong đảng gồm các thành viên bộ chính trị, các bộ trưởng và thứ trưởng, ít nhất mỗi người có vợ hay con làm chủ một công ty. Theo ông J Shapiro, do việc chính phủ cho phép các công ty được chuyển ngân ra nước ngoài lên đến 500000 đô la, số ngoại tệ trong nước bắt đầu vơi đi.

"Vẫn theo ông Shapiro, có khoảng 700 đảng viên CSVN có tài sản từ 100 đến 300 triệu đô la. Đây là con số do một nhân vật cao cấp của ngân hàng trung ương cung cấp cho ông. Những đảng viên có tài sản từ 50 đến 100 triệu đô la khoảng 2000 người…

Tất cả những con số về tài sản của đảng CSVN là do những chuyên viên thống kê của cơ quan mậu dịch quốc tế. Số tài sản lớn lao trên do thân nhân của đảng viên cao cấp ở nước ngoài làm sở hữu chủ. Ông Shapiro cũng nêu lên nhiều thí dụ điển hình như vợ bé của tổng cục phản gián làm ăn rất lớn ở Âu châu, em ruột của trung tướng VC, tổng cục phó tổng cục phản gián đang kinh doanh rất lớn ở Nam Cali, vợ con của Giám đốc tổng cục kinh tế và thân nhân của Đỗ Mười thủ đắc những tài sản nhiều triệu đô la ở Vancouver, Canada và cả ở New York, Houston. Trong niên khóa 94-95, hàng trăm du học sinh là con cái đảng viên tự túc. Niên khóa 95-96, con số này tăng lên gấp 3…

 
Một tài liệu khác trong website mà tôi tạm dịch là mạng điểm ( cf. địa điểm, thời điểm) Hận Nam Quan tháng 5/2002 tựa là “ Giai cấp mới trong các chế độ CS “ cho biết :

"Theo tin của hãng thông tấn Reuter đánh đi từ Hà nội ngày 4 tháng 3 năm 2002 thì ĐCSVN sau khóa họp TƯ Đảng từ 18-2-đến 2-3-2002 đã chính thức ban hành một chính sách mới về kinh tế rất táo bạo: Đảng viên CS được phép làm kinh doanh tư nhân. Phạm Chi Lan, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và kỹ nghệ tuyên bố với phóng viên của hãng thông tấn Reuter rằng:”… Đại hội đã quyết định là các đảng viên đang quản trị các xí nghiệp tư nhân có quyền ở lại trong Đảng".

"Thật ra thì từ nhiều năm nay, các đảng viên cao cấp tuy không chính thức sở hữu một xí nghiệp tư nào cả nhưng thân nhân bà con của họ đã là chủ nhân của những xí nghiệp tư lớn nhất trong nước."Cứ hỏi vợ con các ông Phan văn Khải, Võ văn Kiệt, Đỗ Mười, Phạm Thế Duyệt, Trần Đức Lương, Nguyễn Tấn Dũng…là sẽ biết ai là chủ nhân của các sân golf, các khách sạn hạng sang, hãng xe taxi, hãng hàng không, nhà máy chế biến hải sản, hãng xuất nhập cảng, siêu thị lớn nhất nước.

 
"Ai mà không thấy sự giàu có hiển nhiên của giới lãnh đạo CS tại VN. Họ xây nhà lầu, xài tiền như nước, xuất ngoại như đi chợ, chi tiêu một lúc hàng bó đô la tiền mặt. Giới tư bản đỏ nhờ phù phép XHCN đã biến tài sản của quốc gia thành tư sản một cách thần tình, biển thủ công quỹ, buôn lậu hàng quốc cấm thế mà cứ hò hét diệt tham nhũng đến cùng.
"..
Theo tài liệu FYI ( Poliburos network) ngày 19/12/2000 thì các cán bộ và nhân viên cao cấp của nhà nước CS Hà nội hiện làm chủ những số tiền to lớn gửi tại các ngân hàng ngoại quốc cộng với những bất động sản tọa lạc trong nước.

1.- Lê Khả Phiêu : cựu tổng bí thư ĐCSVN và gia đình có 5 khách sạn (2 ở Hànội và 3 ở Saigon), tài sản và tiền mặt trị giá 1 tỉ 170 triệu Mỹ kim (US$ 1.170.000.000)


2. Trần Đức Lương: Chủ tịch nước CHXHCNVN, tài sản và tiền mặt 1 tỉ 137 triệu MK- 

3. Phan Văn Khải: Thủ tướng chính phủ, gia đình có 6 khách sạn ở Saigon, tài sản 1 tỉ 200 triệu MK.- 
4. Nguyễn Tấn Dũng: Đệ 1 Phó Thủ tướng, tài sản 1 tỉ 480 triệu MK
-

5. Nguyễn Mạnh Cầm: Phó Thủ tướng, tài sản 1 tỉ 150 triệu MK-
6. Phạm Thế Duyệt: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, tài sản 1 tỉ 173 triệu MK-
7. Tướng Phạm Văn Trà : Bộ trưởng Quốc Phòng, tài sản gồm có 10 tấn vàng và tiền mặt 1 tỉ 360 triệu MK.-
8. Trương tấn Sang: Chủ tịch Ủy ban Kinh tế TƯ Đảng CSVN, tài sản và tiền mặt 1 tỉ 124 triệu MK. 

Ngoài ra, còn một số cán bộ và công chức có 1 tỉ và trên 100 triệu MK trong danh sách liệt kê của bảng FYI này là hơn 20 người nữa.
Gần đây nhất, theo điện thư Câu lạc bộ dân chủ số 39 tháng 2/2005 trong mạng điểm Y kiến thì:
"Một nguồn tin tuyệt mật đã được tiết lộ mới đây từ một quan chức cao cấp Bộ Công an cho biết số tiền khổng lồ mà các quan chức cao cấp VN gửi tại ngân hàng Thụy sĩ. Đáng chú ý là:

1. Cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh hơn 2 tỉ USD cộng 7 tấn vàng;
2. Cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười 2 tỉ USD;
3. Đương kim Bộ trưởng Quốc Phòng Phạm văn Trà 2 tỉ USD cộng 3 tấn vàng;
4. Cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu 500 triệu USD;
5. Đương kim Chủ tịch nước Trần Đức Lương 2 tỉ USD;
6. Đương kim Thủ tướng Phan văn Khải hơn 2 tỉ USD;
7. Đương kim Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn tấn Dũng hơn 1 tỉ USD;
8. Đương kim Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh 1,3 tỉ USD;
9. Đương kim chủ tịch Quốc hội Nguyễn văn An hơn 1 tỉ USD;
10. Cựu phó ủy ban thể dục thể thao Quốc gia Lương quốc Đống 500 triệu USD;

11. Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn mạnh Cầm hơn 1 tỉ USD;
12. Cựu Thứ trưởng thường trực Bộ Thương mại Mai văn Dậu hơn 1 tỉ USD.
Ngoài ra, nguồn tin cũng cho biết một danh sách dài các quan chức có số tiền gửi hàng trăm triệu USD…”Tôi phải đưa ra 3 nguồn khác nhau để anh và các bạn trong nước thấy, báo chí trong nước nếu biết cũng không dám đăng vì toàn là “bí mật quốc gia”, internet thì không phải ai cũng có để coi, lại bị tường lửa ngăn chặn hay bị theo dõi khi dùng máy điện toán công
cộng.
http://www.thienlybuutoa.org/Misc/NguoiLinhGia.htm
http://minht.free.fr/tham%20nhung%20001/mat%20tran/no%20le%20che%20do%20001.htmlQuan chức cao cấp của chế độ CSVN gởi tiền ở ngoại quốc
Sunday, September 11, 2005

* CSVN ra luật chống rửa tiền nhưng ...

GENEVA 11-9 (NV) - Một số cán bộ được tin cậy của đám quan chức cao cấp của chế độ Hà Nội đã được giao cho nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị các tài sản khổng lồ của họ có được nhờ tham nhũng hối lộ gửi tại các ngân hàng ngoại quốc. Một nhân vật (yêu cầu dấu tên) từng giao tiếp với một số người này ở một số ngân hàng Thụy Sĩ tiết lộ như vậy trong một cuộc tiếp xúc với báo Người Việt mới đây.“

Chưa kể tại ngân hàng các nước khác ở Âu Châu và Á Châu, riêng tại Thụy Sĩ, tôi biết có hai người ở các ngân hàng thành phố Lausane và hai người ở thành phố Geneva, làm nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị tài sản do xếp của họ gửi.” Nhân vật trên tiết lộ.Lương bổng của đám quan chức cao cấp của đảng và nhà nước CSVN, theo sự mô tả của một viên chức ngoại giao Tây Phương thì “không đủ để họ sống 10 ngày”, nhưng họ có tiền phải gửi, hay nói đúng hơn, giấu đút, ở các ngân hàng ngoại quốc là một điều hiển nhiên bất bình thường.

Cho tới nay, lương căn bản của cán bộ đảng viên CSVN chỉ có 290,000 (tương đương khoảng $18 đô la) rồi nhân theo chỉ số cao thấp tùy chức vụ, cấp bậc. Nhưng có lần Vũ Khoan, phó thủ tướng CSVN, khi thăm một xí nghiệp quốc doanh đã so sánh và thấy một viên chức nhà nước chức vụ rất cao như ông còn kém lương của một người thợ chuyên môn. Ðiều này cho thấy lương bổng cán bộ công chức CSVN, dù là quan chức cao cấp, cũng không là bao nhiêu và không đủ sống.
Theo lời nhân vật trên tiết lộ, mỗi một số viên chức cao cấp của chế độ đều sử dụng một số thuộc cấp tín cẩn vào công việc chuyển ra ngoại quốc số tài sản khổng lồ mà họ vơ vét được qua các “phi vụ” tham nhũng hối lộ.Số tiền họ gửi mỗi lần khoảng bao nhiêu, cách bao lâu gửi một lần, các cán bộ có trách nhiệm chuyển đô la và vàng dưới nhiều hình thức khác nhau đến các ngân hàng ngoại quốc, không tiết lộ.

Nhưng nếu đó không phải là các số tiền lớn bạc triệu đô la thì người ta không cần đến người chuyên trách “chuyển khoản” cũng như quản trị xuất nhập các số tiền này, ông nói.“Họ luôn luôn có trách nhiệm đi đi về về”, ông tiết lộ tiếp. “Giữa không những Việt Nam và Châu Âu mà còn cả từ Việt Nam đến một số ngân hàng ở Á Châu cũng như cả Nga và Ðông Âu.”Tại sao đám quan chức CSVN lại đem tiền gửi cả tại nước Nga là nước có hệ thống ngân hàng thuộc loại bấp bênh nhất trên thế giới?“Họ gửi tiền cả ở ngân hàng Nga vì tin tưởng nguyên tắc khôn ngoan này: Không bao giờ bỏ tất cả các quả trứng vào chung một giỏ.”

Ông giải thích rằng nếu một quả trứng chẳng may bị vỡ, có thể những quả trứng khác vỡ theo. Ðây là sự khôn ngoan chung của đám quan chức cao cấp của chế độ khi họ rải số tiền kiếm chác được ra nhiều nơi trên thế giới. Theo ông, có rất nhiều người khác nhau làm nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị tài sản của “xếp” ở ngoại quốc. Nhưng cũng có những người là vợ, con, hay thân quyến của đám cán bộ đảng viên tham nhũng đóng vai trò giấu đút tiền tham nhũng hối lộ khi họ đi ra ngoại quốc.


Tờ Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn viết một bài có tính cách “mách bảo” cho cán bộ đảng viên tham nhũng trong nước cách thức gửi tiền ở hệ thống ngân hàng Thụy Sĩ với tựa đề “Gửi tiền ở nhà băng Thụy Sĩ”. Bài báo này được báo điện tử VNExpress lấy lại và phổ biến ngày Thứ Bảy 10-9-2005 mở đầu với câu hỏi “Có thể mở tài khoản ẩn danh - anonymous account - ở ngân hàng Thụy Sĩ không?” Bài báo này giải thích khá tỉ mỉ về thế nào là tài khoản ẩn danh dưới hình thức “tài khoản mang số nào đó thay vì mang tên khách hàng.” Và “tài khoản số hạn chế sự hiểu biết về chủ nhân của nó...”

Bài báo phục vụ loại độc giả nào, khách hàng ngân hàng nào ở trong nước, người ta có thể hình dung ra ngay khi mà lợi tức trung bình đầu người chỉ có khoảng $500 đô la một năm.Ngày 8-6-2005, CSVN theo áp lực của Hoa Kỳ khi lôi kéo Hà Nội hợp tác đối phó với khủng bố, rửa tiền ma túy, buôn lậu trên thế giới, ra nghị định số 74/CP để chống rửa tiền. Nghị định này buộc “Các ngân hàng, các định chế tài chính phải báo cáo về các giao dịch trong một ngày của một cá nhân hay một tổ chức có tổng trị giá từ 200 triệu đồng (khoảng $12,400 đô la) trở lên.” Theo sự tường thuật trên báo Tuổi Trẻ ngày 9-6-2005.


Tờ báo này kể tiếp rằng: “Tuy nhiên, các qui định có tác động lớn nhất là các ngân hàng buộc phải báo cáo về những khách hàng có lượng tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng từ 500 triệu đồng (khoảng $31,000 đô la) trở lên tại một ngân hàng. Lượng tiền 500 triệu đồng là tổng các khoản tiền gửi của cá nhân đó chứ không phải là một lần gửi tiết kiệm có trị giá 500 triệu đồng."Nhân vật trên kể cho hay, cách đây mấy năm, ông chánh văn phòng của Hội đồng Bộ Trưởng Chính phủ CSVN có lần đã thua bạc tại một casino ở Geneva “mấy trăm ngàn đô la trong một đêm”.

Ðiều này, số tiền tham nhũng hối lộ mà đám quan chức CSVN giấu đút ở ngoại quốc phải “vô cùng lớn.”Khóa họp Quốc hội CSVN hồi tháng Tư vừa qua, một dự thảo luật chống tham nhũng được bàn cãi nhưng rồi vẫn không có biểu quyết và được loan báo sẽ thảo luận trở lại vào khóa họp thứ hai của năm nay dự trù vào tháng 11 tới. Hàng năm, các khóa họp quốc hội Hà Nội đều có thảo luận chuyện chống tham nhũng và họ nhìn nhận tham nhũng đã trở thành “quốc nạn”.

Bán Hoặc Cho Thuê Nguyễn đình Lộc, đại biểu quốc hội và nguyên là Bộ trưởng Tư Pháp CSVN nói với báo chí trong nước rằng tham nhũng chỉ bị lộ diện khi “nội bộ tham nhũng” tố cáo lẫn nhau. Trong một cuộc điều trần trước quốc hội, Phan văn Khải, thủ tướng Hà Nội, nhìn nhận tham nhũng đã “xà xẻo” khoảng 30% các dự án xây dựng, phát triển. Phần lớn các dự án này được tài trợ từ các khoản tín dụng ngoại quốc. Các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết viện trợ, tài trợ cho các dự án phát triển, xóa đói giảm nghèo cho Việt Nam năm 2005 là $3.4 tỉ đô la. (NT).
__.


Người Nga chết sớm vì vodka?

Cập nhật: 07:16 GMT - thứ sáu, 31 tháng 1, 2014
Nghiên cứu khoa học mới cho thấy con số người Nga chết sớm chủ yếu do uống rượu nhiều, nhất là vodka.
Nghiên cứu đăng trên tạp chí The Lancet nói 25% đàn ông Nga chết trước tuổi 55, và đa số trường hợp tử vong là vì rượu chè. Con số của nhóm tuổi tương tự ở Anh là 7%.

Các bài liên quan

Chủ đề liên quan

Trong số các nguyên nhân trực tiếp gây tử vong là bệnh gan và ngộ độc cồn. Nhiều người khác chết vì tai nạn hoặc đánh nhau.
Đây là một trong các nghiên cứu quy mô nhất trong lĩnh vực này từ trước tới nay tại Nga.
Các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Ung bướu Nga ở Moscow, Đại học Oxford của Anh và Cơ quan Nghiên cứu Ung thư thuộc Tổ chức Y tế Thế giới đã tìm hiểu thói quen uống rượu của 151.000 người lớn tại ba thành phố ở Nga trong thời gian tới 10 năm.
Trong thời gian này, 8.000 trong số đó chết.
Một trong các đồng chủ trì, giáo sư Sir Richard Peto, Đại học Oxford, nói: "Các con số tử vong ở Nga thay đổi trong 30 năm nay tùy theo thay đổi của chính sách và ổn định xã hội dưới thời Gorbachev, Yeltsin, và Putin; và yếu tố chính đằng sau các thay đổi đó là rượu vodka."
Năm 1985, ông Mikhail Gorbachev đã cắt giảm mạnh lượng vodka sản xuất trong nước và cấm bán rượu trước 12 giờ trưa.
Sau đó, khi Liên Xô sụp đổ, người dân uống rượu trở lại và con số người chết cũng tăng lên.
Phụ nữ được cho là uống rượu ít hơn và tỷ lệ tử vong vì rượu cũng thấp hơn.
Nga đưa ra một số quy định ngặt nghèo hơn về rượu vào năm 2006, như tăng thuế và hạn chế bán rượu.
Các nhà nghiên cứu nói lượng rượu người Nga tiêu thụ giảm đi khoảng 1/3 kể từ đó và số người Nga chết trước 55 tuổi giảm từ 37% xuống 25%.
Nửa lít vodka ở Nga giá khoảng 150 rúp, khoảng 90.000 đồng. Người uống nhiều trong nghiên cứu này mỗi tuần tiêu thụ ít nhất một lít rưỡi.
Các nhà nghiên cứu cũng cảnh báo nhiều người Nga uống rượu quá đà. "Đôi khi họ viện lý do là thời tiết lạnh nhưng thực ra không phải".
"Người Nga cần thay đổi cách sống của mình."


Tình hình cướp giật tại Hồ chí Minh do chính quyền ghi nhận:

Xem nạn trộm cướp ở Hồ chí Minh thật kinh hoàng lo sợ:


Vu That


No comments:

Post a Comment

Nhân quyền và bạo quyền

VTV-[Trang Lê Mới Nhất] chửi từ nhà ra phố, Trọng Lú sợ vỡ mật

https://www.youtube.com/results?search_query=Trang+L%C3%AA+%28B%C3%A0+Ngo%E1%BA%A1i%29

Featured Post

Bản Tin buổi sáng-17/1/2025

Popular Posts

My Blog List