VĂN HÓA VÀ NHÂN CHỦ
Chính từ diễn tiến và các cuộc
thăng hóa tư tưởng nơi các nguồn suy tư và thực chứng của Con Người trong Tự
Nhiên và Thế Giới đã kết thành cách nghĩ, lối sống, cuộc sống, rồi dung hóa và
thể hiện ra trong các cuộc sinh hoạt xã hội, đã tạo thành nền Văn Hóa chung của
nhân lọai. Đi từ Mặc Thức Nhân Nhiên, tức là Con Người Tự Nhiên sống với thiên
nhiên, sống chết nhờ thiên nhiên, chưa có ý niệm tích lũy, thần hóa thiên nhiên
để tin tưởng và thờ kính.
Đến Ý Thức Nhân Loại, Con Người nhận biết nhau, quần
tụ với nhau, tạo ra Ý Thức về Xã Hội Người, từ Ý Thức Gia Tộc, tới Bộ Tộc, Dân
Tộc, nhằm tranh sống với Thiên Nhiên, đến tranh giành với Đồng Lọai, kéo dài
trên sự khổ đau về Thiên Tai, Nhân Họa suốt Năm, Bảy ngàn năm qua. Rồi đang dẫn
vào thời đại Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn của Thế Giới hôm nay.
Vậy, Nhân
Chủ, hay là Nhận Thức Nhân Chủ là kết tinh của tiến trình Văn Hóa chung của thế
giới loài người, đi theo với trình độ, quan niệm và nhận thức về chính mình nơi
mỗi người, với người chung quanh và môi trường sống tự nhiên cũng như tập thể
xã hội loài người.
Sự xuất hiện của Giống Người
trên Địa Cầu này, là kết tinh của cuộc Đại Thăng Hoá Vũ Trụ, về khắp mặt Siêu
Lý, Vật Lý, Sinh Lý, để Bổ Sung, Phân Hóa và Điều Hợp trọn vẹn với nhau, tạo ra
hai loại người Nam, Nữ, thuộc Giống Người, cùng có nguồn Tâm Linh, Tinh Anh, Vi
Diệu cao nhất của Vũ Trụ, làm nền cho Tâm Lý với khuynh hướng sống dũng mãnh tiềm
tàng nơi Thể Tạng tuy mong manh, mà bền bỉ dẻo dai, đứng thẳng, tự do vận động,
đi, đứng, nằm, ngồi, chạy, nhảy, múa, hát, bơi, lội, tự tìm lấy nguồn sống nuôi
thân cho chính mình, bằng hai bàn tay khéo léo.
Các Ông, Bà Tổ của chúng ta
luôn luôn thích ứng với mọi môi trường sinh sống, vui chơi, dù rất nghiệt ngã của
Thiên Nhiên đầy hung hiểm để sống còn. Do sự thôi thúc của nguồn Sinh Lý đến hồi
sung mãn, các đôi Nam Nữ đã tìm đến nhau, ân ái, giao phối sinh ra Con Cái, tạo
thành dòng Di Thức Huyết Thống – DNA của Nòi Giống Người, kéo dài mạng mạch di
truyền cuộc sống và nguồn sống bất diệt cho tới chúng ta hôm nay, và đương
nhiên chúng ta sẽ Tự Do, Chủ Động tiếp nối cuộc Sáng Tạo linh thiêng này là
truyền giống sống đó cho Con Cháu đời đời ngang tầm Vũ Trụ, về cả các mặt Siêu
Lý, Vật Lý, Sinh Lý và Tâm Lý -Tâm Linh đến muôn thuở.
TIẾN TRÌNH NHÂN CHỦ
Con Người xuất hiện trên mặt
đất, theo ước tính có đến nhiều triệu năm nay. Với tính toán của các nhà khoa học,
thì Loài Người hoàn toàn vượt ra khỏi “Động Vật Trạng Thái” để sống cuộc
sống Mặc Thức Nhân Nhiên chỉ mới chừng 500,000 ngàn năm nay mà thôi. Tuy sống
trong trạng thái động vật, nhưng trong nội tại tâm não đơn thuần vẫn tiềm ẩn
nguồn Siêu Lý Vũ Trụ, tức là nguồn Siêu Thức Linh Diệu, và nền Di Thức Truyền
Thống - DNA của nòi giống, chỉ vì nguồn Thế Thức Xã Hội còn quá đơn điệu, nên
chưa triển khai được đầy đủ đặc tính Nhân Loại.
Nhưng các Gia Tộc Mẫu Hệ cũng
theo quán tính tự nhiên đã kết thành bày đoàn theo nhau đi kiếm sống tràn
khắp Địa Cầu. Đến nay còn sót lại chỉ tồn tại hai dòng chính là Đa Âm và Đơn
Âm, Dòng Đơn Âm chiếm phía Đông bán cầu, còn Dòng Đa Âm ở phía Tây bán cầu. Các
nhà khoa học đang đi gần tới kết luận về Tổ Tiên dòng Đa Âm. Còn Tổ Tiên dòng
Đơn Âm thì vẫn mù tịt. Đích ra Tổ Tiên Loài Người chỉ có thể xuất hiện ở vùng gần
đường Xích Đạo, nơi có nhiệt độ trung bình đều đặn lúc đó ở trên dưới 37 độ C.
Độ ấm của bụng người mẹ.
Như vậy, khi lục địa Á Châu
chưa bị tách ra, trôi dạt thành các đảo quốc vùng Đông Nam Á, cũng như nước Úc
và Tân Tây Lan, thì rất hợp lý, Việtnam có thể là linh địa của dòng Đơn Âm xuất
hiện, rồi từ Việtnam tràn ra khắp vùng. Đó là các bầu đoàn thê tử đầu tiên tràn
lan khắp Đông Nam Á và Á Châu. Đợt thứ hai tiến vào Hoa Lục cách đây trên dưới
20 ngàn năm, vẫn từ đất Việt. Theo tiến sĩ Madeleine Colani, người Pháp đã khán
phá ra nền Văn Minh Hoà Bình ở vùng Thanh Hóa phía Nam sông Hồng Hà, đã có khoảng
20 ngàn năm trước. Nhưng sau đó, khoảng năm 1.000 trước Tây Lịch, Dân Tộc Việt
từ Động Đình Hồ, tôn thờ Thần Tổ Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ, mới trở về định cư
tại lưu vực Sông Hồng. Quốc Tổ Hùng Vương dựng nước Văn Lang thì nền Văn Minh
Trống Đồng Hoà Bình Mới lại được phục hoạt. Thế là Dân Tộc Việt đã một lần hồi
hương.
Khởi đầu cho 500,000 năm,
nhân loại thoát khỏi cách sinh hoạt hoàn toàn lệ thuộc thiên nhiên, tiến lên sống
cuộc sống Mặc Thức Nhân Nhiên. Tức là các Tộc Thuộc tự thích ứng với cuộc sống
xã hội và tự nhiên, tổ chức thành những Bộ Lạc có các người cầm đầu. Trong mỗi
Bộ Lạc thường thấy có hai thành phần cầm đầu.
Một là Vị Tù Trưởng điều khiển
dân về mặt kiếm sống. Hai là vị Pháp Sư chăm sóc dân về mặt tinh thần, với tín
ngưỡng Đa Thần, giữ việc thờ cúng Thần Linh và trị bệnh cho dân. Bộ Lạc đi từ
Du Mục, Du Canh, Du Cư, đến khi quá lớn phải Định Canh, Định Cư, Lập Quốc để trồng
tỉa và tích lũy. Nhằm tổ chức thành cơ cấu Quốc Gia Dân Tộc. Nhân Loại bước hẵn
vào thời đại Ý Thức Nhân Loại, chỉ mới vào khoảng trên 5 đến 6 ngàn năm nay.
Chế
độ cai trị theo hệ thống “Cha Truyền, Con Nối” của truyền thống Phong Kiến Quân
Chủ. Vào thời đó, các Quốc Gia Dân Tộc đều chọn một vị Thần Tổ Linh Thiêng đứng
đầu Chư Thần, tượng trưng cho việc Quốc Gia Thống Nhất và bảo đảm cho một vị
Vua duy nhất cầm đầu Quốc Dân. Riêng tại Việt Tộc không tôn thần linh làm Thần
Tổ, mà tôn Cha Mẹ Dân Tộc là Đức Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ lên Làm Thần Tổ. Khởi
đầu cho ý niệm Nhân Chủ Đạo, Bình Đẳng giữa Nam Nữ.
Các Quốc Gia thành lập, Nhân
Loại sống trong Ý Thức Nhân Loại là thời kỳ Con Người Suy Tư bùng nổ, các học
thuyết thi nhau xuất hiện, sau khi có học thuyết, Tư Tưởng Hoài Nghi về sự hiện
hữu của Một Đấng Chúa Tể Vũ Trụ và Nắm Vận Mạng Con Người, thì các học thuyết
Duy Thần, Duy Tâm, Duy Vật và hàng trăm thứ triết lý Duy khác, cùng xuất hiện để
tranh thắng, và cho lý thuyết của họ là chân lý. Khởi đầu từ phái Upanishads của
4 ngàn năm trước ở Ấn Độ, đã hệ thống Kinh Veda thay thế những tin tưởng mặc
nhiên về Đấng Brahma Tối Cao thành lý luận về uyên nguyên sáng tạo vũ trụ.
Nhưng rồi Upanishad đặt câu hỏi: “Đấng Brahma cao cả ngự trên trời cao xanh
điều khiển cuộc Diễn Hóa – Maya, có biết được bao việc mình làm không, hay
chính Ngài cũng không biết nốt?”.”Ai là người đã trả lời được?” Từ đó nền
triết học nhân loại được mở ra từ bên Trời Đông cũng như Trời Tây. Nhưng khi
nguồn Tư Tưởng Duy Vật Vô Thần Cộng Sản xuất hiện tạo ra cuộc đấu tranh Ý Thức
Hệ toàn cầu và cuộc chiến tranh Ý Thức Hệ nóng tại Việtnam, thì nhân loại mới bừng
tỉnh, từ bỏ gánh nặng tranh chấp Ý Thức Hệ để trở về sống thực với chính mình,
nhằm dựa vào các Chính Giáo để tìm lối thoát cho Tâm Linh cho Con Người, trong
cuộc vận động không kém phần cam go theo Tiến Trình Toàn Cầu Hoá và Dân Chủ Hoá
Toàn Cầu.
MÔI TRƯỜNG NHÂN CHỦ
Dù hai mươi lăm thế kỷ trước
Đức Phật Thích Ca đã đề ra Biện Chứng về Nhân Chủ Đạo rằng: “Con Người phải
tự thắp đuốc lên mà đi”. Có nghĩa, Mỗi người phải Tự Tu, Tự Giác, Tự Chứng
lấy Chân Lý chứ không nhờ cậy vào bất cứ ai khác. Năm trăm năm sau, Chúa Jésu
thì ẩn dụ rằng “Ta là Con và là Ngôi Hai Thượng Đế và Loài Người là anh em
ta”. Phải chăng Ngài muốn nâng Loài Người lên ngang tầm với Ngài. Cả Hai vị
Giáo Chủ này đều quy về Nhân Chủ Đạo. Còn hai trăm năm trước Dương Lịch, Thầy Mạnh
Tử thì đi thẳng vào chính trị rằng: “Dân vi Quý, Xã Tắc thứ chi, Quân vi
khinh”. Theo đó Dân là Tôn Quý nhất. Thứ hai đến Sơn Hà và Luật Pháp. Thứ
ba mới đến nhà Vua. Nhưng thời của các Ngài đều chỉ mới ở giai đoạn Ý Thức Nhân
Loại, tư tưởng con người còn đặc quánh Thần Quyền và Phong Kiến. Nhân Chủ Đạo
và chế độ Dân Chủ phải đến Cuộc Cách Mạng Tôn Giáo ở Âu Châu của các Giáo
Phái Tin Lành, Lurther 1517 và Calvin 1533 mới dẫn tới các cuộc Cách Mạng Dân
Chủ.
Cũng chính những người Tin
Lành tỵ nạn đàn áp tôn giáo này, đã di cư sang Tân Thế Giới, lập ra nước Hoa Kỳ
tạo lên nền Dân Chủ Trọng Pháp Bền Vững đến hôm nay. Mặc dù, ban đầu Đế Quốc
Anh theo sang cai trị họ. Nhưng họ không cần biết tới luật lệ của Đế Quốc ở
trên cao. Mà tự lập ra các Làng Xã, Thị Trấn, tự bầu ra người quản trị, và người
giữ an ninh. Đến khi Hoa Kỳ giành được Độc Lập 1776 thành lập Hợp Chúng Quốc, họ
đã có sẵn cái gốc Dân Chủ Trực Tiếp Tự Lực nơi Làng Xã, Thị Trấn từ thời bị cai
trị bởi Đế Quốc Anh, để các Tiểu Bang họp thành một Liên Bang Cộng Hoà Dân Chủ
Trọng Pháp bền vững. Trở nên một siêu cường, sau khi tham dự 2 Cuộc Thế Chiến
và một Cuộc Chiến Tranh Lạnh, đang phải đương đầu với cuộc Khủng Bố Toàn Cầu.
Đang dẫn đầu tiến trình Kinh Tế Toàn Cầu Hoá và công cuộc Dân Chủ Hoá Toàn Cầu.
Thật đáng buồn các cuộc gọi
là cách mạng Dân Chủ từ xưa tới nay, kể cả cuộc đại cách mạng Pháp 1789, cũng
đã bị tha hóa, đưa đến việc nhân danh cách mạng để tàn sát lẫn nhau; cuối cùng
lại quay về Đế Chế. Rồi đến cuộc cách mạng Tư Sản Dân Quyền Âu Châu 1848 cũng bị
quái hoá thành chế độ Thực Dân đi xâm lăng các thuộc địa. Cuộc cách mạng Tân Hợi
1911 ở Trung Hoa, vì vẫn giữ hệ thống cai trị phong kiến, thượng hạ cấp, nên dẫn
tớí nạn xứ quân cát cứ, để sau thua về tay cộng sản. Tồi tệ nhất là cuộc cách mạng
Cộng Sản tại Nga, nó đã nhân danh cách mạng để tàn sát những thành phần trí thức
đối kháng và những người bị quy chụp thuộc thành phần trí thức Tiểu Tư Sản.
Sau
đó lan tràn sang các nước chư hầu cộng sản đã giết hại nhân loại tổng cộng lên
trên Một Trăm Triệu Người. Ngày nay Việtnam không may, vẫn còn bị Đảng Cộng Sản
thống trị, bảo sao bọn họ không lỳ lợm duy trì bản Hiến Pháp Phản Dân Chủ, Phản
Quốc Dân, Phản Thời Đại cho được. Nhưng một khi nó không hợp Lòng Dân, hợp Thế
Nước, hợp Thời Đại thì nó phải tiêu vong.
Rút kinh nghiệm từ các cuộc
cách mạng nêu trên, chúng ta phải suy nghĩ cách nào để tránh cho công cuộc Dân
Chủ Hóa của chúng ta hôm nay, không vấp vào những sai lầm xưa. Ai cũng biết muốn
thay đổi vận mệnh một quốc gia thì không thể bỏ qua 2 yếu tố Lòng Dân và Thế Nước.
Muốn hiểu lòng dân thì phải có Tự Do Truyền Thông. Nhưng truyền thông thì chỉ mới
ảnh hưởng tới thành phần trí thức và dân chúng đô thị còn ở thôn quê thì không
mấy phổ biến, nhất là về vấn đề Dân Chủ. Chính vì vậy, muốn cuộc Dân Chủ Hóa chế
độ được hoàn thiện và bền vững, thì ngoài phải có bản Hiến Pháp Đa Nguyên, Tam
Quyền Phân Lập, có Tự Do Tôn Giáo,Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Lập Đảng, Tự Do Nghiệp
Đoàn…
Đồng thời với các cuộc bầu cử tự do ở trung ương, phải lập tức tiến hành
ngay các cuộc bầu cử tại các đơn vị hành chánh gốc là Làng Xã ở Nông Thôn và Thị
Xã ở Thị Tứ. Để thoát khỏi hệ thống hành chánh phong kiến “Thượng đội, Hạ đạp”
Cấp trên hạ lệnh cho cấp dưới. Mà mỗi cấp chỉ làm đúng luật pháp đã được quy định
theo chế độ Dân Chủ Pháp Trị. Chứ không phải là Ý Chí Thượng Cấp. Muốn vậy việc
bầu cử Làng Xã, Thị Xã lần đầu tiên không do cấp trên tổ chức, mà do tổ chức
chí nguyện Sinh Viên được các Giáo Sư Đại Học hướng dẫn.
Họ được huấn luyện một thời
gian vừa đủ, để làm công tác vận động Dân Chúng ứng cử và Bầu Cử. Nhất là hướng
dẫn dân chúng biết về Dân Quyền của mình, và vị Xã Trưởng và Hội Đồng Xã được bầu
là vị tổng thống và chính phủ trực tiếp của họ. Dân có quyền bầu lên, và nếu
không làm đúng ý dân thì lần sau không bầu cho nữa, nếu quá đáng thì có thể vận
động một số cử tri theo luật định, để yêu cầu Quốc Hội cho phép bầu lại Xã Trưởng,
hay một ủy viên trong Hội Đồng. Tóm lại để cho dân thấy được mình là chủ nhân
ông đích thật của quê hương, đất nước mình. Từ đó người dân mới ý thức được
chân giá trị về lá phiếu của mình khi bầu cho Tổng Thống, Quốc Hội, hay bất cứ
chức vụ được bầu cử nào.
Cuộc bầu cử Dân Chủ Trực Tiếp sẽ tạo ra một Nền Cộng
Hoà Đáy Tầng làm nền tảng vững chắc cho chế độ Dân Chủ Trọng Pháp bền vững, như
nền Dân Chủ Siêu Cường Hoakỳ ngày nay. Và cũng hợp với Truyền Thống Dân Tộc Việtnam
đã có ngay từ thời đại của Thần Tổ Lạc Long Quân mở nước, Quốc Tổ Hùng Vương dựng
nước. Là trao quyền tự trị địa phương cho các Tộc Trưởng, đưa đến truyền thống “phép
Vua thua lệ Làng”.
Chính nhờ đó mà ngàn năm bị Bắc thuộc, Việtnam vẫn duy
trì được bản sắc Văn Hoá Dân Tộc nơi làng xã, để đoạt lấy thời cơ xây mùa tự chủ
thời Ngô Quyền năm 939. Truyền thống vi diệu đó đã bị Hồ Chí Minh và Đảng Cộngsản
Việtnam theo lệnh Tầu, tiêu diệt mất qua cuộc Cải Cách Ruộng Đất, nên nay mới
làm cả nước đang bị rơi vào hoàn cảnh mất nước từng phần về tay Tầu. Con cháu Hồ
chí Minh mau thức tỉnh đi còn kịp, nếu không chắc chắn sẽ bị trả giá nặng nề,
vì bản chất Dân Tộc Việt vốn có sức bật phi thường. Chính vì bản chất Nhân Chủ
Việt và Biện Chứng Nhân Chủ thời đại đang tới, Việtnam sẽ sớm Dân Chủ Hoá được
chế độ.
THỰC HÀNH NHÂN CHỦ
Khi chế độ đã được Dân Chủ
Hóa, đất nước Hòa Bình, Phát Triển, dân chúng Tự Do, nhà nhà An Vui, người người
thanh thản, yên tâm đóng góp công sức vào cuộc thăng hóa xã hội và lịch sử nòi
giống và nhân loại, vấn đề lúc đó chỉ còn lại là Tâm Linh Hướng Thượng. Thực
ra, khi một người đã xuất hiệt, sinh hoạt ở cõi đời này, thì không mất đi đâu hết,
hình ảnh đã truyền vào không gian vô tận. Tính tình, tri thức đã để lại trong
Di Thức Huyết Thống của nòi giống, trong dòng DNA của mình, cũng tới vô cùng, bất
tận.
Những công trình tinh thần, cũng như thực tế, góp sức thăng hóa cho nhân
quần xã hội đều hội nhập vào dòng Văn Hóa tiếp tục diễn hóa, thăng hóa đến muôn
đời, muôn kiếp. Chỉ có tấm thân giả tạm này trở về với cát bụi vật chất, để
cùng tiếp tục diễn hóa. Còn Tâm Thức Tâm Linh thì tùy ý niệm sống của mỗi người,
lúc sống tin tưởng tuyệt đối vào hướng vươn tới của mình tự chủ động lựa chọn
là gì, lúc chết sẽ theo về hướng đó.
Nếu sống trong quan niệm tuyệt
đối tin tưởng vào có sự thưởng phạt đời sau, thì ngay sau khi chết, Linh Hồn sẽ
theo hướng ấy mà đi tới. Nếu sống trong quan niệm tin tưởng tuyệt đối vào kiếp luân
hồi, thì sau khi chết Tâm Linh sẽ lững lơ ở cõi Trung Ấm chờ hợp duyên với thai
nhi nào đó để hội nhập, trở thành lực lượng Siêu Thức họp với lực luợng Di Thức
của Thai Nhi để thành Nội Tại Tâm Linh của một con người, hay một con vật nào
đó, tùy theo Tâm Đức mỗi người khi còn sinh tiền. Nếu sống không tuyệt đối tin
tưởng vào hướng vươn tới nào đó, lúc chết cũng sẽ bị trả giá cho sự thiện, ác ở
đời, nhẹ ra là rơi vào cõi Trung Ấm, để tuỳ duyên mà thể nhập thôi.
Đó là quan
niệm về đời sau của các chính giáo. Nhưng tất cả đề quy về một mối là Nhân Chủ
Tính, tùy quan niệm sống của mỗi người, tuyệt đối không ai có thể làm lệch hướng
chủ động lựa chọn của một người. Vì Con Người là Linh Vật có Tự Do Tự Chủ và
quyền Sáng Tạo trong cuộc đời này và tiếp diễn tới vô cùng và “đã sinh ra
thì chẳng có cái gì mất cả”. Dù bị vần vũ trong cõi Vô Thường Biến Ảo.
Dù nói cách nào, cũng phải
công nhận Loài Ngừơi là một sinh loại siêu đẳng ở trái đất này. Là kết tinh của
cuộc Đại Thăng Hóa của Vũ Trụ, cùng trong nguồn Động Lực Siêu Thể vô biên vô hạn
của Vũ Trụ, do tiến trình thăng hóa của Vũ Trụ, mà kết tinh lên Giống Người
tinh anh. Vậy Con Người muốn hội nhập với Vũ Trụ một cách chủ động trọn vẹn để
cùng góp vào công cuộc Đại Thăng Hóa cho các đợt Vũ Trụ sinh sau, cũng không thể
làm khác hơn là trở lại thể không Tự Ngã Hóa chính Tâm Thức mình và Vô Ngã Hóa,
nơi quan niệm của mình về Đại Ngã Vũ Trụ, để tất cả cùng trở về với Bản Thể Vũ
Trụ: Siêu Thể Vô Biên Vô Hạn.
Chỉ có như vậy, Con Người mới đi đúng hướng Nhân
Chủ Nhân Văn: Tự Do Tự Chủ Sáng Tạo, vươn lên cùng Vũ Trụ Hằng Hoá và Chuyển
Hóa Thăng Hoá không cùng. Nếu, chư vị Tự Chủ Tu Chứng Giải Thoát Sinh Không, một
khi chúng sinh thành tâm niệm tới Danh Hiệu mình, thì đều ứng nghiệm.
LÝ ĐẠI NGUYÊN
Tết Giáp Ngọ
2014
Viết xong 20/11/2013 - Gửi đi 23/01/2014
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền