Trò
chuyện với người phơi bày vụ 5 công an Tuy Hòa đánh chết dân
Chống Nghị
Quyết 36 - HUỲNH QUỐC BÌNH
·
In
·
Ý kiến
·
Chia sẻ:
·
·
·
·
Tin liên hệ
·
Các
nhà hoạt động trẻ VN điều trần trước Ủy ban Nhân quyền Canada
·
Nhà bất đồng chính kiến Đinh Đăng Định qua đời
·
Chiến
dịch toàn cầu kêu gọi phóng thích 3 nhà hoạt động Việt Nam
·
Cuộc Tổng Vận Động Nhân quyền Việt Nam bắt đầu tại
Quốc hội Mỹ
·
Con
trai nhà hoạt động Minh Hằng vận động cho mẹ được trả tự do
CỠ CHỮ
Trà Mi-VOA
13.04.2014
Thêm
một trường hợp công an dùng nhục hình đánh chết dân gây chấn động dư luận sau
khi tòa sơ thẩm tuyên các bản án khiến công chúng bất bình và Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang phải lên tiếng chỉ đạo xử nghiêm vụ này.
5 sĩ quan công an thành phố Tuy Hòa (Phú Yên) ngày 3/4 bị tuyên phạt các mức án
từ 1 năm tù treo đến 5 năm tù ở về tội “dùng nhục hình” dẫn tới cái chết thương
tâm của một cư dân địa phương tên Ngô Thanh Kiều cách đây gần 2 năm.
Ông Kiều bị giải về đồn công an lúc 3 giờ sáng ngày 13/5/2012 dù không có lệnh
bắt. Chỉ 14 giờ đồng hồ sau, gia đình ông được tin báo tử đến bệnh viện nhận
thi thể nạn nhân đã bị tra tấn bầm dập, với trên 70 vết tích ‘kinh hoàng’.
Người đưa ra ánh sáng vụ công an giết người dã man này là một luật sư trẻ, chủ
nhân một văn phòng luật sư khiêm tốn đặt tại một vùng quê hẻo lánh ở Phú Yên,
cách tỉnh lộ hàng cây số, không truy cập được internet hay email, bốn bề bao
phủ bởi cây cối ruộng vườn.
Luật sư Võ An Đôn, ngoài 30 tuổi, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, là người
tình nguyện giúp đỡ pháp lý hoàn toàn miễn phí cho gia đình nạn nhân Ngô Thanh
Kiều ngay từ buổi đầu.
Ông đã hướng dẫn gia đình ông Kiều chụp ảnh khi khám nghiệm tử thi, giúp họ làm
đơn tố cáo để đưa thêm một vụ công an tra tấn, giết người ra ánh sáng giữa tình
trạng leo thang nạn bạo hành trong ngành công an Việt Nam.
Gia đình ông Kiều cho biết họ đã tìm tới nhiều luật sư nhưng bị từ chối vì ngại
các vụ án dính líu tới công an, nhưng ngay từ lần gặp đầu tiên luật sư Đôn đã
nhận lời giúp đỡ họ không công.
Ông tuyên bố sẵn sàng gánh chịu mọi rủi ro để làm sáng tỏ công lý, bảo vệ người
nghèo ‘thấp cổ bé họng’. Ông nói ông không sợ hiểm nguy vì đấu tranh cho một xã
hội công bằng là hạnh phúc của một luật sư chân chính.
Tại tòa, bất chấp những áp lực, luật sư Đôn nhất mực đề nghị khởi tố sĩ quan
cao cấp nhất liên quan trong vụ án là ông Lê Đức Hoàn, Phó công an thành phố
Tuy Hòa, nhưng đã bị tòa bác bỏ.
Từ văn phòng luật sư Võ An Đôn ở thôn Phước Thịnh, xã Hòa Bình 2, huyện Tây
Hòa, tỉnh Phú Yên, luật sư Đôn chia sẻ với Tạp chí Thanh Niên nỗi bức xúc trước
những gúc mắt trong bản án làm lung lạc niềm tin dân chúng về cán cân công lý
tại Việt Nam, những trăn trở về môi trường pháp lý trong nước, và những ưu tư
của người hành nghề luật trong điều kiện pháp luật không được thượng tôn.
Bấm vào nghe toàn bộ
cuộc phỏng vấn luật sự Võ An Đôn
·
Danh
mục
·
Tải
Luật sư Võ An Đôn: Bản án vừa rồi xử không đúng pháp luật. Họ đã đạp trên dư
luận, đạp trên pháp luật để ra một bản án trái pháp luật.
Trà Mi: Theo luật sự có những dấu hiệu sót người lọt tội nào cần phải làm rõ?
Luật sư Võ An Đôn: 5 công an Tuy Hòa đánh chết anh Kiều không phải là tội ‘dùng
nhục hình’ mà là tội ‘cố ý gây thương tích’ dẫn tới chết người, hoặc tội ‘giết
người’ mới đúng. Họ bắt anh Kiều bất ngờ, không có giấy tờ, theo quy định pháp
luật bắt người như vậy là trái pháp luật. Thứ hai, họ dùng nhục hình đánh chết
anh Kiều tại trụ sở, quá trình lấy lời khai cũng không đúng, không có một biên
bản nào hết. Khi đưa ra xét xử, lẽ ra phải áp dụng cùng một khung hình phạt cho
5 bị cáo, nhưng Viện kiểm sát Tuy Hòa lại áp dụng 2 khung hình phạt khác nhau.
Trà Mi: Đó là những sai phạm từ khâu bắt giữ, điều tra, truy tố. Ngay tại phiên
tòa hôm 3/4 vừa qua trong phần tranh luận giữa đôi bên có gì đáng chú ý không,
thưa ông?
Luật sư Võ An Đôn: Hội đồng Xét xử không dựa trên sự tranh luận tại tòa. Hình
như có sự áp đặt nào đó, không dựa trên pháp luật. Thượng tá Lê Đức Hoàn, Phó
Trưởng công an thành phố Tuy Hòa, phạm tới 3 tội: bắt người trái pháp luật,
tòng phạm trong việc dùng nhục hình, và thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng. Tôi nhiều lần đề nghị khởi tố ông ta 3 tội danh này nhưng Hội đồng Xét
xử lại bỏ qua. Vụ này giữa một bên là người dân thấp cổ bé họng, một bên là cơ
quan quyền lực cao của nhà nước, cho nên xử rất khó.
Trà Mi: Những bản án nhẹ tay thế này sẽ gây hậu quả thế nào đối với xã hội?
Luật sư Võ An Đôn: Bản án vừa tuyên, dư luận trong nước rất phản đối, không có
tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm giữa lúc việc dùng nhục hình hiện nay đang
diễn ra tràn lan. Bản án như vậy gây mất lòng tin của người dân đối với pháp
luật. Bản án này vừa xem thường pháp luật vừa đạp trên dư luận.
Trà Mi: Ở môi trường luật pháp minh bạch, quan tòa không phải chịu một áp lực
chi phối nào. Luật sư thấy yếu tố này trong môi trường luật pháp Việt Nam
như thế nào?
Luật sư Võ An Đôn: Hội đồng Xét xử không được độc lập, bị nhiều yếu tố chi phối
lắm, nói ra thì đụng chạm tùm lum, rất khó. Cả một cơ chế, bộ máy như vậy thì
nói ra đụng chạm lắm chị à.
Trà Mi: Có người cho rằng không phải vụ án nào ở Việt Nam cũng như thế. Nhưng
có người cho rằng đó là một sự thật hiển nhiên, tất cả đều tương tự như vậy, có
điều không bị phơi bày ra ánh sáng hết mà thôi. Ý kiến luật sư thế nào?
Luật sư Võ An Đôn: Đa số thường xử không đúng luật pháp. Vụ này bị dư luận, báo
chí tham gia rầm rộ vậy mà người ta vẫn đạp trên pháp luật để ra bản án thế thì
những vụ bình thường không có báo chí đưa tin đương nhiên sẽ xảy ra kiểu vậy,
rất bình thường chị ạ.
Trà Mi: Chánh án tòa án Tuy Hòa, ông Lương Quang, nhìn nhận tòa án cũng phải
chọn ‘giải pháp an toàn’ để đành bỏ lọt tội phạm. Vai trò của chánh án, tòa án
coi như bị trói tay. Còn vai trò người luật sư trong việc bảo vệ luật pháp,
công lý ở Việt Nam như thế nào?
Luật sư Võ An Đôn: Luật sư vai trò rất mờ nhạt, rất yếu. Nói đúng luật pháp,
Hội đồng Xét xử cũng chẳng nghe. Khó khăn như vậy chị à.
Trà Mi: Xét xử không dựa trên luật mà dựa trên những yếu tố ‘nhạy cảm’, theo
lời chánh án Lương Quang, cho nên có người cho rằng ở Việt Nam có luật sư cũng
như không. Ông có thấy người luật sư bị ‘thừa thải’ trong môi trường pháp lý ở
Việt Nam?
Luật sư Võ An Đôn: Có nhiều vụ án có luật sư cũng như không, nhưng cũng có
nhiều vụ cũng rất cần có luật sư. Ví dụ như trong vụ anh Ngô Thanh Kiều, nếu
không có luật sư thì sẽ không bao giờ phơi bày ra những oan ức, dân không biết
kêu ai vì tòa xử dựa trên các mối ‘quen biết’.
Trà Mi: 11 năm làm việc trong ngành luật, ông đúc kết cho mình những kinh
nghiệm thế nào để vừa có thể giữ được an toàn tối thiểu cho bản thân vừa không
vi phạm đạo đức nghề nghiệp?
Luật sư Võ An Đôn: Ở Việt Nam luật có rất nhiều, nhưng áp dụng một nẻo. Luật sư
hiện nay đa số chạy theo vật chất, đồng tiền. Luật sư muốn giàu có, làm có tiền
thì phải chạy án, phải liên kết với tòa án, cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát.
Những người luật sư không cần tiền mà cần công lý, lẽ phải thì số đó ở Việt Nam
rất ít chị à.
Trà Mi: Luật sư chạy án, quan tòa bị chi phối, quá trình điều tra xét xử có
nhiều vi phạm, và nạn bạo hành, dùng nhục hình trong ngành công an nhiễu
nhương. Trước những gúc mắt đó, có giải pháp nào ông nhìn thấy có thể giúp giải
quyết vấn đề nan giải hiện nay không?
Luật sư Võ An Đôn: Đó là một vấn đề lớn, cả một cơ chế, một bộ máy đòi hỏi phải
cải cách cho phù hợp. Nói tới vấn đề đó thì đụng chạm, nhạy cảm lắm chị à. Luật
sư biết nhưng không dám nói. Các cơ quan tiến hành tố tụng muốn làm theo công
lý thì phải độc lập, không lệ thuộc vào ai thì mới có công lý được. Còn lệ
thuộc như hiện nay, ông này ông kia chỉ đạo, bản án do người khác ấn định chứ
không phải do ông thẩm phán. Ở Việt Nam khổ vậy chị à.
Trà Mi: Trong khi tòa xử cũng phải chọn ‘giải pháp an toàn’, như lời ông chánh
án thành phố Tuy Hòa, người luật sư cứ nói lẽ phải như vậy, ông có sợ rủi ro
cho bản thân?
Luật sư Võ An Đôn: Luật sư nói sự thật vì công lý thì rất nguy hiểm, nhưng tôi
không sợ, cả tính mạng tôi cũng không sợ vì mình nói lên công lý-sự thật để bảo
vệ người dân. Đó là hạnh phúc cho người luật sư chân chính. Tôi không sợ gì.
Trà Mi: Ông trông mong gì trong phiên phúc thẩm vụ án Ngô Thanh Kiều sắp tới
đây?
Luật sư Võ An Đôn: Tôi mong bản án phúc thẩm xử đúng luật pháp không bỏ lọt tội
phạm, xử lý nghiêm những người phạm tội để răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội
phạm dùng nhục hình trong thời gian tới. Tới giờ này thì tôi cũng chưa thấy gì
khả quan. Muốn vụ án được khả quan phải có sự vào cuộc của các cơ quan trung
ương. Nếu mong muốn của tôi không đạt được, tôi thất vọng, dư luận sẽ thất
vọng. Người ta ví luật pháp Việt Nam như cái lưới chỉ bắt được những con cá bé,
còn những còn cá lớn lại để sẩy. Tôi cũng hơi buồn.
Trà Mi: Tử thi nạn nhân Ngô Thanh Kiều có những vết thương kinh hoàng, theo lời
mô tả của ông chánh án Lương Quang, so với những bản án vừa tuyên thì rõ ràng
thấy được mức độ chênh lệch quá lớn, làm đau lòng những người yêu chuộng công
lý và bảo vệ luật pháp. Vậy luật sư có thể làm gì hơn nữa để đấu tranh bảo vệ
sự thật?
Luật sư Võ An Đôn: Làm rõ một vụ án đòi hỏi rất nhiều cơ quan, chứ một cá nhân
luật sư nhỏ bé thì rất là khó, với tư cách một luật sư, tôi chỉ có thể nói lên
những gúc mắt của vụ án đó.
Nạn nhân Ngô Thanh Kiều mất đi để lại bố mẹ già, người vợ trẻ và hai đứa con
thơ, đứa nhỏ nhất chưa một lần nhìn thấy mặt cha.
Bà Ngô Thị Tuyết, chị ruột ông Kiều nói hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn,
nằm trong diện được cấp sổ ‘hộ nghèo’ ở địa phương:
“Các gia đình bị cáo, ví dụ như
gia đình bị cáo Thành có điều kiện mướn tới 2 luật sư, mỗi luật sư 100 triệu.
Trong khi em dâu tôi không có một hột gạo nấu cơm ăn, phải đi làm thuê tất cả
các công việc, ai mướn gì làm nấy. Con thì nhỏ, ba mẹ thì già, còn phải đi làm
mướn để nuôi cháu.”
Gia đình ông Kiều cho biết sẽ kháng án tới cùng với khao khát tìm kiếm công lý
không chỉ cho mình mà cho những người cô thế chịu áp bức, bất công trong xã
hội:
“Không phải tất cả các vụ án
kiểu này được đưa ra ánh sáng hết. Cũng chính vì vậy mà gia đình tôi cố gắng
tìm ra công lý để trừng trị thích đáng những người trong hàng ngũ công an dùng
quyền hành của mình để đánh đập người dân đến chết như vậy. Chúng tôi làm vậy
để sau này đừng xảy ra vụ việc như em tôi. Tôi hy vọng tòa tới đây sẽ xét xử
công minh, trừng trị những người gây ra tội ác, lấy lại lòng tin của gia đình
tôi và của toàn thể người dân sống trong đất nước Việt Nam để người dân yên
tâm, tin tưởng vào pháp luật mà sống.”
Luật sư Võ An Đôn khẳng định ông sẽ tiếp tục hỗ trợ gia đình ông Kiều theo đuổi
vụ án tới cùng.
Với 11 năm làm việc trong ngành luật pháp trong nước, luật sư Đôn hiện cũng là
một cộng tác viên của Trung tâm Trợ giúp Pháp lý nhà nước ở tỉnh Phú Yên,
chuyên nhận bào chữa miễn phí cho dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ
mang thai, hay trẻ em dưới 18 tuổi.
Việt
Nam: Mẹ tù nhân Đỗ Thị
Minh Hạnh điều trần
tại Quốc hội
Đức
Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương
Tú Anh
Số
phận ba tù nhân lương tâm Việt
Nam Đỗ Thị Minh Hạnh,
Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương được
trình bày trước Quốc hội
và chính phủ Đức. Qua cuộc
vận động của
tổ chức VETO, Mạng
Lưới Những Người Bảo Vệ
Nhân Quyền, cơ sở
tại Đức, bà Trần
Ngọc Minh đã có cơ hội
kêu cứu cho con gái
mình, là Đỗ Thị Minh Hạnh,
bị giam trong điều kiện
cay nghiệt ở nhà tù Thanh Xuân, Hà Nội với
bản án 7 năm tù vào
năm 2010 vì tổ chức đình công bảo
vệ công nhân công
ty giày Mỹ Phong ở Trà Vinh.
Từ Berlin, bà Trần Thị Ngọc Minh tóm lược hai buổi gặp gỡ với Ủy Ban Nhân Quyền Quốc Hội Đức ngày 08/04 và Đặc Ủy viên Nhân Quyền Liên Bang Đức ngày 09/04/2014:
Bà Trần Thị Ngọc Minh : Tôi được Veto đưa vào Quốc hội Đức qua sự hướng dẫn của anh Vũ Quốc Dụng. Khi đến nơi, tôi đã thấy bầu không khí trang trọng tại phòng họp. Đã có bốn vị dân biểu cao cấp ngồi tại bàn chính, xung quanh là rất nhiều nhân viên các văn phòng dân biểu.
(…) Khi vào họp, đầu tiên, vị chủ tọa – tức là người dân biểu cao cấp nhất của Ủy ban Nhân quyền – đã đặt vấn đề về sức khỏe của Đỗ Thị Minh Hạnh hiện tại, cũng như các điều kiện giam giữ tại Việt Nam, nơi Minh Hạnh đang bị giam giữ. Tôi cũng tóm tắt sơ lược về sức khỏe Minh Hạnh, hiện đang mang một căn bệnh hiểm nghèo mà tôi
không biết được rõ ràng.
Họ đề nghị tôi trình bày chi
tiết về các vấn đề Minh Hạnh hoạt động, cũng như là lý do Minh Hạnh bị tù tội và bị tù tội như thế nào.Họ rất là xót xa và đau
lòng, và họ không ngờ rằng ở Việt Nam lại có những trường hợp như vậy.
Tôi cũng trình bày hết cho họ nghe, và nguyện vọng của Đỗ Thị Minh Hạnh là muốn có công đoàn độc lập ở Việt Nam, để mà bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động. Vì nghiệp đoàn lao động hiện nay ở Việt Nam là của đảng Cộng sản, chỉ có phục vụ lợi ích cho đảng Cộng sản nhiều hơn là bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Họ rất là ân cần và họ hứa sẽ tổ chức một cuộc họp để tìm ra một phương pháp giúp cho Hạnh và các người bạn được tự do. Sau đó tôi được gặp các vị dân biểu bảo trợ cho Đỗ Thị Minh Hạnh, rồi ngài đặc ủy về Nhân quyền Liên bang Đức. Quốc hội cũng hứa sẽ hết sức quan tâm đến Minh Hạnh và tìm ra giải pháp giúp Hạnh được tự do, được chăm sóc về y tế. (…)
Những điều mà Quốc hội Đức đã làm vừa qua, khi tôi được gặp gỡ họ thì tôi cảm thấy rằng tôi rất hạnh phúc và vinh dự, rất là may mắn . Tôi tin rằng khi ở trong tù Minh Hạnh biết được điều này, thì Minh Hạnh rất hạnh phúc và an tâm,
mạnh mẽ hơn trong nhà tù của Nhà nước Việt Nam.
Đồng thời tôi cảm thấy đất nước của họ tôn trọng nhân quyền rất lớn, đặt vấn đề nhân quyền lên trên hết. Tôi cũng tin tưởng rằng, qua cuộc gặp gỡ này, Minh Hạnh và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, và Đoàn Huy
Chương, và các tù nhân lương tâm ở Việt Nam có các diễn biến khả quan hơn. Tôi rất tin tưởng và hy vọng.
Về phía Quốc hội và chính phủ Đức, các dân biểu và những nhân vật trách nhiệm hồ sơ nhân quyền đã có thái độ ra sao trước nỗ lực vận động công luận quốc tế của một bà mẹ Việt Nam, ông Vũ Quốc Dụng, điều hành tổ chức nhân quyền VETO cho biết như sau.
Ông Vũ Quốc Dụng : Chúng tôi rất là mừng, khi thấy ở Đức, họ đặt giá trị nhân quyền lên cao hơn hết, như là các giá trị chung. Tại sao tôi lại nói như vậy ? Khi chúng tôi đi vận động, chúng tôi thấy tất cả các khối đảng trong Quốc hội đều rất quan tâm, từ tả sang hữu, từ đảng ngày xưa là đảng Cộng sản của Đông Đức, cho đến các đảng tham chính hiện nay. Khi chúng tôi làm việc với các đảng tham chính và các đảng đối lập , chúng tôi có những người thực hiện những cam kết, và những người giám sát việc thực hiện những điều đã hứa.
Nhận xét thứ hai của tôi là, trong trường hợp này, bà Trần Thị Ngọc Minh đã được hai cơ chế cao cấp nhất của lập pháp và hành pháp
Đức đón tiếp. Đó là Ủy ban Nhân quyền của Quốc hội Đức và viên Đặc ủy Liên bang phụ trách Nhân quyền và Cứu trợ nhân đạo. Điều này cho thấy, đây là một vinh hạnh cho người Việt Nam đầu tiên, được hai cơ chế cao nhất về nhân quyền của nước Đức tiếp đón.
Nhận xét thứ ba của tôi là trường hợp Đỗ Thị Minh Hạnh, chỉ là một trường hợp tiêu biểu cho việc giam giữ tùy tiện, việc xét xử bất công và vấn đề tra tấn, hành hạ, đánh đập trong tù, vấn đề cưỡng bách lao động, tiêu biểu cho rất, rất nhiều những người tù chính trị và tù nhân lương tâm hiện còn bị giam giữ một cách bất công. Trường hợp tiêu biểu này sẽ giúp, không chỉ cho việc quan tâm đến hai người khác trong vụ cô Hạnh, là Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và anh Đoàn
Huy Chương, mà sẽ giúp cho thế giới quan tâm đến số phận của các tù nhân chính
trị và lương tâm tại Việt Nam.
Một số vấn đề về luật đất đai và tồn tại thực
tế khi thu hồi đất
Hà Huy Sơn
1. Quyền sở hữu đất đai:
Quyền sở hữu đất đai trong lịch sử đều bao gồm các hình thức sở
hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước. Nhưng từ khi Hiến pháp 1959 cho
đến Hiến pháp 2013 thì chỉ còn một hình thức duy nhất là sở hữu toàn dân. Sở
hữu toàn dân đối mặc nhiên được coi là sở hữu nhà nước và quyền thực thi cụ thể
thuộc về Chính phủ, UBND các cấp. Từ đó cho đến nay những cá nhân, tập thể sở
hữu đất đai đã bị tước quyền sở hữu đất đai mà không được bồi thường, hay đền
bù gì cả.
2. Thu hồi đất đai:
Luật đất đai cụ thể hóa Hiến pháp qua các thời kỳ đã cho phép
Chính phủ, UBND cấp tỉnh, huyện theo thẩm quyền thu hồi đất đai trong xã hội
một cách không có giới hạn. Nếu cá nhân, tập thể nào không chấp hành, không bàn
giao mặt bằng sẽ bị cả hệ thống chính trị cưỡng chế thu hồi bằng mọi biện pháp.
Bằng chứng thực tế như sau:
● Luật đất đai 1993, Điều 27 quy định:
“Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử
dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại.”
Khái niệm thế nào là “trường
hợp thật cần thiết” và ““lợi
ích công cộng” thì không có một văn bản pháp luật nào quy
định, giải thích rõ ràng. Nếu thực hiện nguyên tắc của một Nhà nước pháp quyền
thực sự “Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép” thì Chính quyền
không được phép lấy lý do “trường
hợp thật cần thiết” và “lợi
ích công cộng” để thu hồi đất ngoài các trường hợp khác mà
luật quy định như vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia… Ngay cả
khái niệm “mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia” cũng bị lạm dụng vì không
minh bạch và không được pháp luật quy định cụ thể.
● Luật đất đai 2003:
Ngoài các trường hợp thu hồi đất đai khác thì khoản 1 Điều 40
“Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế”, quy định, trích:
“Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích
phát triển kinh tế trong trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công
nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ.”
Điều này có thể hiểu thu hồi đất để phát triển kinh tế trong các
trường hợp được giới hạn hay được quản lý theo quy định của Chính phủ. Nhưng
Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, Điều 36 “Thu hồi đất và
quản lý quỹ đất đã thu hồi” quy định các trường hợp được thu hồi đất, trong đó
điểm đ, khoản 1:“Sử dụng
đất để chỉnh trang, phát triển khu đô thị và khu dân cư nông thôn;” là
một khái niệm mơ hồđã bị UBND các cấp lợi dụng làm cho việc thu hồi đất đai
không còn giới hạn nào nữa và quy định của Điều 40 Luật đất đai 2003 giao cho
Chính phủ quản lý đã thành vô nghĩa.
Song hành với quyền thu hồi đất không còn
giới hạn và để hợp pháp hóa các quyết định đó là công tác quản lý phê duyệt,
điều chỉnh các loại quy hoạch sử dụng đất đai của vùng, quy hoạch của các địa
phương không được minh bạch, không được giám sát chặt chẽ.
● Luật đất đai 2013:
Sẽ không có gì tiến bộ hơn, bằng chứng là điểm a khoản 1 Điều 16
“Nhà nước quyết định thu hồi đất, trưng dụng đất”, quy định: “Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng,
an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng;” và
tiếp tục được các văn bản dưới luật quy định không rõ ràng như trước đây.
3. Biến trách nhiệm của Nhà nước thành lỗi của dân để không bồi
thường khi thu hồi đất:
Hiến pháp 1992 và mới đây Hiến pháp 2013 đều ghi “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân”. Điều này có thể hiểu là tất cả các cấp
chính trong điều kiện có thể phải đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của người dân.
Các nền dân chủ dựa trên nguyên tắc: Nhà nước tồn tại là để phục vụ nhân dân.
Ngược lại, trong hệ thống chuyên quyền, Nhà nước yêu cầu người dân phải trung
thành và phục vụ Nhà nước mà không cần biết người dân có đồng thuận hay không.
Luật đất đai 1993 và Luật đất đai 2003 quy định khi bị thu hồi
đất người dân được bồi thường. Nhưng Điều 43 Luật đất đai 2003 cũng quy định
những trường hợp không được bồi thường, trong đó điểm e khoản 1: “Trường hợp không đủ điều kiện cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại Điều 50 của Luật này;”. Chính
vì quy định này mà không ít UBND các cấp ở các địa phương đã biến trách nhiệm
của Nhà nước đối với dân trong quản lý đất đai thành lỗi của người dân. UBND xã
không xác nhận cho người dân là người sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp,
UBND xã, huyện không thực hiện trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho hộ gia đình với nhiều lý do. Để đến khi có quyết định thu hồi đất thì
cho rằng người dân không đủ điều kiện để được bồi thường.
Trên đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình
trạng khiếu kiện đất đai kéo dài, ở khắp các địa phương và đang là một mâu
thuẫn cơ bản trong xã hội giữa người dân với chính quyền.
Hà Nội, 13/04/2014.
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền