Tìm
hiểu và bảo vệ quyền con người là “vi phạm pháp luật”?
Stop Torture and Violence in Vietnam
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
Trần Quang Thành
Vào hồi 19h ngày
27/11/2014, một nhóm sinh viên gồm Lý Quang Sơn, Lý Trí Thành, Dũng Xe Máy và
Quyết Phạm đang chuẩn bị ăn cơm tối tại phòng 604 tòa nhà N06, phố Trần Đăng
Ninh, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội, bỗng xuất hiện một toán người
gồm Công an khu vực, Cảnh sát cơ động, An ninh mặc thường phục và Dân phòng
xông vào nhà yêu cầu kiểm tra tạm trú tạm vắng. Trong khi ấy, ngoài hành lang
còn có khoảng một chục người nữa bao vây.
Bất chấp sự phản đối của chủ nhà, đám
người tự nhận là công an này đã xông vào lục lọi các phòng mà không hề có lệnh
khám xét hoăc bất kỳ thứ giấy tờ nào. Họ viện lý do có người viết đơn tố giác
phòng 604 có chứa chấp tài liệu trái phép và chất gây cháy nổ. Sau một hồi khám
xét, lực lượng An ninh đã thu giữ 30 chiếc áo in logo nhân quyền và các tài
liệu về dân chủ và nhân quyền được xuất bản tại Việt Nam (ví dụ như cuốn “Dân
chủ trực tiếp” và “Dân chủ ở cấp địa phương”, cuốn “Hỏi đáp về quyền con
người”, cuốn “Giáo trình quyền con người quốc tế”, cuốn “Tư tưởng về quyền con
người” do Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản) và 1 máy tính bảng)..
Khoảng 21h30, 3 sinh
viên Lý Quang Sơn, Lý Trí Thành và Quyết Phạm bị đưa về công an phường Dịch
Vọng để làm việc. Trong lúc bước lên xe ô tô, Lý Quang Sơn đã bị lực lượng an
ninh nắm tóc và đập đầu vào cửa xe và tát liên tục vào mặt. Ở dưới sân nhà N06
có rất nhiều An ninh, Công an và Cảnh sát cơ động, họ còn điều động thêm 1 xe
cứu thương và 2 xe thùng để dẹp đám đông anh em đến ứng cứu.
Trong đồn công an
phường Dịch Vọng, Lý Trí Thành bị đánh liên tiếp vào mặt, vào đầu đầu, bụng và
vai khi từ chối khai báo nhân thân và trả lời về các nguồn gốc cáctài liệu có
trong phòng 604 tòa nhà N06. Riêng Quyết Phạm và Dũng Xe Máy không bị đánh và
hai người không ký hay khai nhận điều gì.
Vào lúc 12h45 sáng
ngày 28 tháng 11, Dũng Xe Máy được thả. Sau đó khoảng gần 2h sáng thì Lý Quang
Sơn, Lý Trí Thành và Quyết Phạm lần lượt được ra khỏi đồn công an.
Từ Hà Nội, anh Lý
Quang Sơn đã kể lại sự việc với phóng viên Trần Quang Thanh như sau:
Mời quí vị theo dõi
T.Q.T
Quyền
tự do lập hội của các Hướng đạo sinh Việt Nam bị xâm phạm như thế nào ?
Ls Nguyễn Lệnh (cựu Hướng đạo sinh Hội HĐVN)
Phong trào Hướng đạo
được một người Anh là Huân tước Robert Baden Powell sáng lập năm 1907. Hiện
nay, trên thế giới có khoảng trên 200 quốc gia, vùng lãnh thổ có tổ chức Hướng
đạo, trong đó 165 Tổ chức Hướng đạo Quốc gia được công nhận tư cách hội viên
của Tổ chức Thế giới của Phong trào Hướng đạo (World Organization of the Scout
Movement, viết tắt là WOSM). Tại Điều 1 của Hiến chương WOSM có ghi rõ “Phong trào Hướng đạo là một phong trào
giáo dục, phi
chính trị và
tự nguyện cho giới trẻ không phân biệt nguồn gốc, nòi giống hay tín ngưỡng, phù
hợp với mục đích, nguyên tắc và phương pháp hình thành bởi Người sáng lập“.
Ở Việt Nam, sau khi
giành được độc lập từ Pháp, chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) được
thành lập vào ngày 2/9/1945, bầu cử Quốc hội đầu tiên vào ngày 6/1/1946 và một
bản Hiến pháp được thông qua ngày 9/11/1946. Trong những ngày tháng đầu tiên
của Nhà nước Việt Nam độc lập, Hội Hướng đạo Việt Nam (Hội HĐVN) được thành lập
vào ngày 7/2/1946 và được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận làm Hội trưởng danh dự vào
ngày 31/5/1946 (1). Nhưng sau đó, chiến tranh Việt – Pháp nổ ra vào tháng 11/1946,
đầu tiên là tại Hải Phòng, Chính phủ Việt Nam phải sơ tán khỏi Hà Nội, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đưa ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” ngày 19/12/1946.
Trong thời gian Chính
phủ Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh rút vào các vùng núi kháng chiến chống
Pháp thì ngày 8/3/1948 Tổng thống Pháp Vincent Auriel và Cựu hoàng Bảo Đại của
Việt Nam đã ký kết Hiệp ước Elysée ngày 8/3/1948, tuyên bố xác nhận “nền độc
lập của Việt Nam” và chính thức thành lập Quốc gia Việt Nam trong khối Liên
hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại. Cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu
từ ngày 19/12/1946 và kết thúc bằng Hiệp định đình chiến Genève ngày 20/7/1954.
Người thay mặt cho Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ký kết Hiệp định
Genève là Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng VNDCCH và là Tổng ủy viên của
Hội HĐVN. Theo Hiệp định Genève 1954, lãnh thổ nước Việt Nam tạm chia làm 2
vùng kiểm soát, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự. Miền Bắc vĩ tuyến 17 do
lực lượng VNDCCH kiểm soát; còn miền Nam vĩ tuyến 17 do lực lượng Liên hiệp
Pháp, trong đó có lực lương Quốc gia Việt Nam kiểm soát. Đến năm 1955 chính thể
Quốc gia Việt Nam ở miền Nam đổi tên là Việt Nam Cộng hòa (VNCH) và đến ngày
30/4/1975 nước Việt Nam thống nhất cả 2 miền Nam, Bắc.
Do hoàn cảnh chiến
tranh và hậu quả của Hiệp định Genève, nước Việt Nam đã bị phân chia thành 2
miền Nam – Bắc với 2 chính thể khác nhau từ năm 1954 đến 1975 nên cũng có đến 2
Hội HĐVN được thành lập một cách hợp pháp. Một Hội HĐVN được thành lập đầu tiên
ở Hà Nội ngày 7/2/1946 dưới chính thể VNDCCH; và 7 năm sau, tại Sài Gòn, dưới
chính thể Quốc gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại, một Hội HĐVN thứ hai được
thành lập bằng một Nghị định riêng có tên “Nghị định số 326-NĐ/TN ngày 9/2/1953” do Bộ
trưởng Bộ Thanh niên và Thể thao là Vũ Hồng Khanh ký tên, đã “Chiếu đơn số 003-HT-HĐ ngày
12/6/1952 của ông Hội trưởng Hướng đạo Việt Nam” để ban hành Nghị định này và ghi rõ tại
Điều thứ nhất là “Hội
HĐVN được phép hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam, theo bản điều lệ đính kèm
theo Nghị định này”.
Chính Hội HĐVN thứ hai được thành lập
ngày 9/2/1953 đã gia nhập WOSM và được công nhận là một Tổ chức Hội viên của
WOSM vào năm 1957.
Cả 2 Hội HĐVN này được
thành lập và hoạt động hợp pháp trong nhiều năm dưới 2 chính thể khác nhau
nhưng có chung một tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, theo thời gian, cả 2 Hội HĐVN
có tư cách pháp nhân này đều bị chấm dứt hoạt động một cách không rõ ràng và
không bình thường. Việc chấm dứt pháp nhân của 2 tổ chức xã hội này được các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền ở VN đưa ra lời giải thích không phù hợp với các
quy định của pháp luật.
Qua nghiên cứu các chứng cứ và các tư liệu liên quan
đến sự thành lập, hoạt động và chấm dứt của 2 Hội HĐVN trong thời gian qua, tôi
thấy cần làm rõ các khía cạnh pháp lý về sự chấm dứt hoạt động này nhằm trả lời
câu hỏi là quyền lập hội của các Hướng đạo sinh 2 Hội HĐVN có bị xâm phạm hay
không? Nếu có thì cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào phải chịu trách nhiệm về sự
xâm phạm quyền lập hội của những HĐS VN theo quy định của pháp luật Việt Nam?
1.
Khuôn khổ pháp luật về quyền lập hội
dưới các chính thể ở Việt Nam từ 1945 đến 2014:
1/ Quyền lập hội trong khuôn khổ pháp luật dưới chính thể Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945 – 2014):
Có thể xác định khuôn khổ pháp luật về quyền lập
hội từ 1945 đến 2014 bao gồm các văn bản pháp luật sau đây:
– Hiến pháp đầu tiên
của nước VNDCCH ngày 9/11/1946 có ghi tại Điều 10: “Công dân Việt Nam có
quyền: Tự do ngôn luận, Tự do tổ chức và hội họp, Tự do tín ngưỡng,
Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.
– Sắc Lệnh Luật số
102-SL/L-004 Quy định quyền
lập hội do Chủ tịch Nước VNDCCH ban hành ngày 20/5/1957.
“Quyền lập hội” ghi trong Sắc Lệnh Luật số 102-SL/L-004 (sau đây gọi là Sắc lệnh
102 năm 1957) chính là “Quyền tự do tổ chức” ghi trong Hiến pháp đầu tiên 1946.
– Hiến pháp tiếp theo
của VNDCCH ngày 31/12/1959 cũng gọi là “Quyền tự do lập hội” giống như trong
Sắc lệnh 102 năm 1957 khi quy định tại Điều 25 rằng: “Công dân nước VNDCCH có
các quyền tự do ngôn
luận, báo chí, hội họp, lập
hội và biểu tình. Nhà nước đảm bảo những điều kiện vật
chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó”.
- Hiến pháp nước CHXHCNVN ngày 18/12/1980 cũng quy định
“quyền tự do lập hội” tại Điều 67.
– Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị 1966 mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 quy định
“quyền tự do lập hội” tại Điều 22.
– Hiến pháp nước
CHXHCNVN ngày 15/4/1992 (sửa đổi bổ sung 2001) cũng quy định tại Điều 69: “công
dân có quyền lập hội theo quy định của pháp luật”.
– Bộ luật hình sự
1999, Điều 129: “Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân”.
– Nghị định của Chính
phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý
hội.
– Nghị định của Chính
phủ số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý
hội – thay thế Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003.
– Hiến pháp nước
CHXHCNVN ngày 28/11/2013 cũng quy định tại Điều 25: “Công dân có quyền… lập hội…”.
Như vậy, căn cứ vào
Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 và Sắc lệnh 102 năm 1957 thì “Quyền tự do tổ
chức” còn được gọi là “Quyền tự do lập hội”; và một “tổ chức” cũng được gọi là
một “hội”.
Để có thể hiểu và đánh
giá đúng về Sắc lệnh
102 năm 1957 xin được trích dẫn một số điều luật chủ yếu
trong tổng cộng 12 điều của Sắc lệnh này:
“Điều 1. Quyền lập hội
của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính
đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta.
Điều 3. Để bảo đảm
việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân,
lập hội phải xin phép. Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định.
Điều 4. Những hội đã
thành lập trước ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm bị chiếm
trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại.
Điều 7. Người nào xâm
phạm đến quyền lập hội hoặc đến quyền tự do vào hội, ra hội của người khác có
thể bị cảnh cáo hoặc bị truy tố trước tòa án và bị xử phạt tù từ một tháng đến
một năm.
Điều 9. Các đoàn thể
dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận Dân tộc thống nhất trong
thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm vi
quy định của luật này.
Điều 10. Các hội có mục đích kinh tế không
thuộc phạm vi quy định của luật này”.
Xin nêu một số nhận
xét về Sắc lệnh 102 năm 1957 như sau:
– Tại Điều 1 của Sắc
lệnh không nêu ra một định nghĩa rõ ràng và đầy đủ về các đối tượng và phạm vi
điều chỉnh mà chỉ quy định rằng lập hội phải có mục đích và mục
đích được mô tả chỉ có tính chất chính trị là: “Lập hội phải có mục đích chính
đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp
phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”.
Quy định hội chỉ có mục
đích chính trị như Điều 1 là không được đầy đủ, bởi vì trong pháp luật dân sự –
như tại Điều 110 Bộ luật Dân sự ngày 28/10/1995, đã phân loại “hội” hay “tổ
chức” là căn cứ vào nhiều loại mục đích khác nhau như là: chính trị, xã hội,
kinh tế, nghề nghiệp, từ thiện… hoặc có mục đích hỗn hợp như: xã hội – nghề
nghiệp, chính trị – xã hội, chính trị – xã hội nghề nghiệp. Tuy nhiên, quy định
thiếu sót tại Điều 1 như thế chứng tỏ Sắc lệnh 102 năm 1957 (có tất cả 12 điều)
có chủ đích áp dụng cho những “tổ chức chính trị”, “đảng phái chính trị” đã
hoạt động trước khi Sắc lệnh này ban hành vì Sắc lệnh này buộc những đảng phái
chính trị đó “đều phải xin phép lại” theo Điều 4. Đồng thời, Sắc lệnh này cũng
áp dụng cho những “tổ chức chính trị”, “đảng phái chính trị” sẽ được thành lập
trong tương lai sau khi Chính phủ ban hành “Thể lệ lập hội” như đã ghi tại điều
3.
– Liệt kê tên 19 liên
minh và đảng phái chính trị Việt Nam vào thời kỳ trước khi có Sắc lệnh số 102
năm 1957 (1945 – 1954) như sau: – Đảng Lao động Việt Nam – Việt Nam Quốc dân
đảng – Đại Việt Quốc dân đảng – Đảng Xã hội Việt Nam – Đảng Dân chủ Việt Nam –
Việt Nam Độc lập Đồng minh hội – Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội – Việt Nam
Dân chủ Xã hội đảng – Đảng Dân chủ An Nam – Liên minh Dân chủ – Hội Liên hiệp
Quốc dân Việt Nam – Bảo hoàng chính đảng – Mặt trận Thống nhất Quốc gia liên
hiệp – Tân Việt Nam đảng – Liên đoàn Công giáo Việt Nam – Việt Nam Quốc gia
liên hiệp – Việt Nam Phục quốc đồng minh hội – Mặt trận Quốc gia liên hiệp –
Việt Nam Dân chúng liên đoàn (2).
Như vậy, một “tổ chức chính trị”, trước
năm 1957, có thể mang những tên khác nhau như: đảng, hội, mặt trận, liên đoàn,
liên minh, liên hiệp … Và “các tên gọi khác nhau” đó cũng được giải thích tại
Khoản 2 Điều 2 Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định
về tổ chức, hoạt động và quản lý hội rằng: “Hội có các tên gọi khác nhau: liên
hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi kháctheo
quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là hội)”.
Trong Nghị định Chính
phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 này cũng có ý tránh, không sử dụng tên gọi
“đảng chính trị” hay “tổ chức chính trị” nhưng tại Điều 4 của Nghị định này có
ghi tại Khoản 2 rằng: “Hội được công nhận là tổ chức chính trị – xã hội,
tổ chức chính trị – xã hội nghề nghiệp, hội có hoạt động gắn với nhiệm vụ của
Nhà nước được ngân sách nhà nước hỗ trợ theo quy định của Thủ tướng Chính phủ”.
Như vậy, tổng hợp các quy định trong các Hiến pháp 1946, 1959, Sắc lệnh 102 năm
1957, Nghị định Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 và cả Bộ luật Dân sự
1995 mà Nghị định 88/2003 dùng làm căn cứ thì các tổ chức chính trị hay
các đảng phái chính trị là
những đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Sắc lệnh 102 năm 1957.
– Thực tế sau khi ban
hành Sắc lệnh 102 năm 1957 thì trong số 19 liên minh và đảng phái chính trị VN
đang hoạt động có 16 đảng phái chính trị không thể “xin phép lại” được theo quy
định của Điều 4. Còn người dân muốn lập hội mới thì “phải xin phép” và phải chờ
“Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định” như đã ghi tại Điều 3. Thế nhưng công
dân VN phải chờ thêm 46 năm tính từ ngày có Sắc lệnh này, Chính phủ mới ban
hành “Thể lệ lập hội” bằng Nghị định Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003
quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
Riêng 3 đảng chính trị là Đảng
Lao động Việt Nam (tên gọi Đảng CSVN từ năm 1951), Đảng Dân chủ VN và Đảng Xã
hội VN do nằm trong Việt Minh và Mặt trận Liên Việt – tức Mặt trận Dân tộc
thống nhất trong thời kỳ kháng chiến, nên 3 đảng này vẫn tiếp tục hoạt động
theo quy định tại điều 9 của Sắc lệnh này. Tuy nhiên, đến Hiến Pháp ngày
18/12/1980 của nước VN thống nhất là CHXHCNVN đã quy định tại điều 4: “Đảng
Cộng sản Việt Nam,…..là lực
lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội …”
khiến
dẫn đến hệ quả vào năm 1988 cả 2 Đảng Dân chủ VN và Đảng Xã hội VN đều
tuyên bố “giải thể”.
Rất dễ nhận ra với quy định tại Điều 4 của Hiến pháp 1980
rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam … là lực lượng duy nhất lãnh đạo
đất nước, lãnh đạo xã hội…” đã trực tiếp xâm phạm đến “quyền tự do tổ
chức” trong Hiến pháp 1946, xâm phạm “quyền tự do lập hội” trong Hiến pháp 1959
và Hiến pháp 1980, đồng thời tạo ra sự mâu thuẫn và xung đột pháp lý giữa
“quyền tự do lập hội” bao gồm nhiều đảng khác nhau và Đảng CSVN là “lực lượng
duy nhất” ngay trong Hiến pháp 1980. Đến Hiến pháp 1992, Quốc hội đã xóa bỏ 2
từ “duy nhất” tại Điều 4 nên Đảng CSVN không còn là “lực lượng duy nhất” nữa và
như thế là mặc nhiên xóa bỏ chế độ “độc đảng” và tái công nhận “quyền tự do tổ chức”,
“quyền tự do lập hội” trong tất cả các Hiến pháp trước đó và trong Sắc lệnh 102
năm 1957.
Nếu một đảng chính trị nhận được sự tín nhiệm và ủng hộ của nhân dân
hoặc của Quốc hội tùy theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì đảng đó sẽ
nắm giữ vai trò là đảng cầm quyền, là “lực lượng lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã
hội”. Sắc lệnh 102 năm 1957 được ban hành chính là để áp dụng cho nhiều
đảng phái chính trị (đa đảng) đang hoạt động và sẽ được thành lập trong tương
lai. Không có điều khoản nào trong Sắc lệnh này thể hiện rằng Sắc lệnh được làm
ra là chỉ dành cho một đối tượng, một đảng “duy nhất” cụ thể nào. Khi Sắc
lệnh 102 năm 1957 ghi tại Điều 3 rằng “Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định”
là đã xác định đối tượng xin lập hội mới bao gồm nhiếu đảng phái chính trị khác
trong tương lai chứ không phải chỉ có 3 đảng là Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Xã
hội Việt Nam và Đảng Dân chủ Việt Nam là những đảng chính trị được miễn “xin
phép lại” như quy định tại Điều 9.
Vậy, vào thời điểm
hiện tại (2014), một “tổ chức chính trị” hay một “đảng chính trị” có phải là
đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Sắc lệnh 102 năm 1957 và Nghị định Chính
phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 hay không? Câu trả lời đã được thể hiện
ngay tại Điều 4 của Sắc lệnh: “Những hội đã thành lập trước ngày ban hành luật
này và đã hoạt động trong vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn
tiếp tục hoạt động, đều
phải xin phép lại”. Hệ
quả là có 19 đảng phái chính trị hoạt động trước 1957 phải xin phép lại nhưng
đã có 16 đảng phái đã bị xóa tên vì không vượt qua được quyền cấp phép của cơ
quan thẩm quyền.
Còn những ai muốn lập hội mới tức các đảng phái chính trị mới
thì phải xin phép theo “Thể lệ lập hội” sẽ do Chính phủ quy định như đã ghi tại
điều 3: “Để bảo đảm việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố
chế độ dân chủ nhân dân, lập hội phải xin phép. Thể lệ lập hội sẽ do
Chính phủ quy định”. Tức
là, những đảng phái chính trị đã hoạt động trước ngày ban hành Sắc lệnh 102 năm
1957 hoặc sẽ thành lập mới sau khi Chính phủ ban hành “Thể lệ lập hội” đều là
những đối tượng áp dụng Sắc lệnh này. Nghị định Chính phủ số
88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 chính
là “Thể lệ lập hội” được quy định trong Sắc lệnh 102 năm 1957 khi ghi rõ ở phần
đầu Nghị định là: “Căn cứ Sắc lệnh số 102/SL-L004 ngày 20/5/1957 ban hành
Luật quy định quyền lập hội” và “Căn cứ Bộ Luật dân sự ngày 28/10/1995″.
Tuy nhiên, các công
dân Việt Nam muốn thành lập một hội có mục đích chính trị đã phải bối rối khi
đọc “Thể lệ lập hội” được Chính phủ ban hành bằng Nghị định số 88/2003/NĐ-CP
ngày 30/7/2003 với định nghĩa về hội tại Điều 2, Khoản 1 như sau: “Hội được quy
định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức
Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết
hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của hội viên; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định
này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”. Đây là một định nghĩa
được tác giả cố ý sử dụng câu chữ rối rắm, đánh đố người đọc, khiến cho người
đọc dễ hiểu sai rằng “hội” trong Nghị định này không bao gồm “tổ chức chính
trị”; hoặc hiểu sai rằng Nghị định này không bao gồm các “đảng chính trị” vốn
là đối tượng áp dụng của Sắc lệnh 102 năm 1957.
Rồi đến khi Chính phủ ban hành
tiếp Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 để thay thế Nghị định số
88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 thì định nghĩa về hội vẫn giữ nguyên, chỉ bổ sung
những chi tiết không quan trọng (được gạch chân) như sau: “Hội được quy định
trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt
Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp,
đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có
hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, được tổ
chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan”.
Tóm lại, từ năm 1945 đến 2014, dưới chính thể VNDCCH và CHXHCNVN
đã có 5 bản Hiến pháp được ban hành và trong mỗi bản Hiến pháp đều có quy định
quyền tự do lập hội của công dân VN. Nhưng từ sau khi Sắc lệnh 102 năm 1957 ban
hành thì kết quả của việc thi hành Sắc lệnh này là đã xóa bỏ tất cả những đảng
phái chính trị đang hoạt động vì những tổ chức này đã không được chính quyền
cấp phép lại, chỉ có 3 đảng là Đảng LĐVN cầm quyền, Đảng XHVN và Đảng DCVN còn
tiếp tục hoạt động.
Đến năm 1988, Đảng DCVN và Đảng XHVN tiếp tục giải thể, chỉ
còn lại duy nhất đảng cầm quyền là Đảng CSVN. Tuy việc ban hành Sắc lệnh 102
năm 1957 đã xóa bỏ các đảng phái chính trị đối lập với đảng cầm quyền nhưng mãi
đến năm 2003 Chính phủ mới ban hành “Thể lệ lập hội” bằng Nghị định số
88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 để các công dân VN có điều kiện tiến hành các thủ
tục xin thành lập hội là đảng chính trị mới theo quy định của Sắc lệnh 102 năm
1957 và của 5 bản Hiến pháp. Tuy nhiên, cho đến nay, trong thực tế vẫn chưa
thấy có một đảng chính trị nào nộp đơn xin phép thành lập (?). Câu hỏi tại sao
xin được để ngỏ.
2/ Quyền lập hội trong khuôn khổ pháp luật dưới chính thể Quốc
gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa (1948 – 1975):
Quyền lập hội của công
dân được ấn định trong Dụ số 10 ngày 6/8/1950 (sau đây gọi là Dụ số 10 năm
1950) do Quốc trưởng Bảo Đại ban hành. Đến ngày 19/11/1950 Dụ số 24 được
ban hành để sửa đổi bổ sung Dụ số 10. Dụ số 10 ngày 6/8/1950 được áp dụng dưới
chính thể Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hoà cho đến ngày 30/4/1975. Xin
trích dẫn quy định của Điều 1 trong Dụ số 10 đã đưa ra một định nghĩa về hội
rất rõ ràng, dễ hiểu:
“Điều 1- Hội là Hiệp
ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên
tiếp để theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích
thuộc về tế tự, tôn giáo, chính
trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh
niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu.
Muốn có hiệu lực thì
hội nào cũng phải hợp với nguyên tắc chung của pháp luật về khế ước và nghĩa
vụ”.
Trong thời gian áp dụng Dụ số 10 từ 1950 đến 1975 đã có 16 đảng
phái chính trị hoạt động như sau: – Đảng Phục hưng – Đảng Dân chủ Nam Việt Nam
– Đảng Xã hội cấp tiến Miền Nam Việt Nam – Cần lao nhân vị cách mạng đảng –
Việt Nam dân chủ xã hội đảng – Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam –
Đại Việt quốc dân đảng – Đảng Tân Đại Việt – Đại Việt cách mạng đảng – Phong
trào Quốc gia cấp tiến – Liên minh Các lực lượng dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt
Nam – Phong trào Quốc gia tiến bộ – Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam – Mặt trận
Quốc gia dân chủ xã hội – Đảng Công nông Việt Nam – FULRO (3).
Như vậy, trong phần
định nghĩa của Dụ số 10 năm 1950 dưới chính thể Quốc gia Việt Nam cũng lấy mục đích theo đuổi
khác nhau của các tổ chức để phân loại các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh
của Dụ, tương tự như Sắc lệnh 102 năm 1947 của chính thể VNDCCH và Nghị định số
88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 dưới chính thể CHXHCNVN.
1.
Hội Hướng đạo Việt Nam được thành lập,
hoạt động và tồn tại như thế nào dưới các chính thể ở Việt Nam?:
1/
Hội HĐVN dưới chính thể VNDCCH và CHXHCNVN (gọi là Hội HĐVN 1946):
Sau khi Việt Nam giành
được độc lập từ thực dân Pháp năm 1945 thì một “Hội Hướng đạo Việt Nam không
hoạt động và cổ động về mặt chính trị. Hội HĐVN không giới hạn trong thời gian”
được thành lập để “thay và thống nhất ba hội Hướng đạo Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ
… với mục đích huấn luyện thanh niên về ba phương diện: đức, thể, thực theo tôn
chỉ và phương pháp…”, về sau được
gọi là “phương pháp Hướng đạo” (4). Hội HĐVN được Chính
phủ VNDCCH chính thức công nhận khi Điều lệ (Quy trình) của hội được duyệt y
ngày 7/2/1946 do ông Đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ Chính phủ VNDCCH Hoàng Minh
Giám ký. Ngày 31/5/1946 Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Hồ Chí Minh gởi thư cho Hội
trưởng Hội HĐVN báo tin nhận làm DANH DỰ HỘI TRƯỞNG HỘI HĐVN.
Hiến pháp đầu tiên của
nước VNDCCH ngày 9/11/1946 đã bảo hộ quyền lập hội của các HĐS Hội HĐVN tại
Điều 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận – Tự do tổ chức và hội
họp – Tự do tín ngưỡng – Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Đến
ngày 20/5/1957, Chủ tịch Nước VNDCCH đã ban hành Sắc lệnh số 102 Quy định quyền
lập hội.
Tại Điều 4 của Sắc lệnh ghi rõ: “Những hội đã thành lập trước ngày ban
hành luật này và hoạt động trong vùng bị tạm chiếm trong thời kỳ kháng chiến,
nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại“. Hội HĐVN
được thành lập và hoạt động hợp pháp dưới chính thể VNDCCH, có Chủ tịch Chính
phủ Việt Nam Hồ Chí Minh làm DANH DỰ HỘI TRƯỞNG nên đã không “phải xin phép
lại” sau ngày ban hành Sắc lệnh.
Cũng vào năm 1957, Hội HĐVN đã cùng với 3 tổ chức khác là
Đoàn Thanh niên CS Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam và Hội Học sinh Việt Nam
thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (Hội LHTNVN) với tư cách là “Thành
viên tập thể của Hội LHTN”. Là “thành viên tập thể của Hội LHTNVN”, Hội HĐVN đã
thảo luận, đề nghị các vấn đề về hoạt động của Hội LHTNVN, giới thiệu đại diện
của Hội HĐVN vào Ủy ban Hội LHTNVN các cấp … trong cả 2 kỳ Đại hội toàn quốc
Hội LHTNVN (lần thứ 1) năm 1957 và tiếp theo Đại hội toàn quốc Hội LHTNVN (lần
thứ 2) năm 1961.
Hiện nay, các huynh trưởng Hội HĐVN vẫn còn lưu giữ 2 thẻ đại
biểu của huynh trưởng Phạm Ngọc Try là đại biểu của Hội HĐVN tham dự 2 lần đại
hội nói trên của Hội LHTNVN. Ngoài ra, các huynh trưởng Hội HĐVN vẫn còn lưu
giữ một văn bản ghi ngày 5/2/1965 có đóng dấu đỏ của Bộ Tổng ủy viên Hội HĐVN
1946 (ở miền Bắc) gởi cho các anh chị huynh trưởng và các Tráng, Thiếu, Ấu là
Hướng đạo sinh Trung, Nam bộ thuộc Hội HĐVN ở miền Nam. Các chứng cứ còn lưu
giữ này cùng với “Danh sách 220 Hướng đạo sinh đã tham gia Cách Mạng và có
những nhiệm vụ quan trọng trong các lĩnh vực Đảng, quân đội và các ngành khác
từ 1945 đến nay”(5), đã chứng minh một cách thuyết phục rằng: Một Hội HĐVN đầu
tiên được thành lập trong khuôn khổ pháp luật dưới chính thể VNDCCH và đã hoạt
động liên tục từ ngày thành lập 7/2/1946 cho đến ít nhất là ngày 5/2/1965.
Sau ngày đất nước
thống nhất 30/4/1975, các huynh trưởng thuộc Hội HĐVN thành lập năm 1946 (ở
miền Bắc VN) mà hầu hết là các đảng viên CS đã cùng với các huynh trưởng Hội
HĐVN thành lập năm 1953 (ở miền Nam VN) gởi khoảng trên 10 đơn, thư, kiến
nghị đến các vị lãnh đạo Đảng CS và Nhà nước VN để vận động, xin phép tái lập
Hội HĐVN nhưng đều không nhận được bất cứ câu trả lời nào. Xin được liệt kê các
đơn, thư, kiến nghị đó:
– Trưởng Trần Hữu Khuê
đã gởi đến các vị lãnh đạo Đảng, Quốc hội và Nhà nước tổng cộng 6 văn bản vào
các ngày: 18/11/1988, 6/4/1989, 14/10/1992, 28/3/1996, 8/8/1997, 1/7/2000.
– Trưởng Nguyễn Dực
thay mặt 20 Trưởng Hướng đạo gởi đơn ngày 3/3/1993
– Trưởng Bạch Văn Quế
gởi thư ngày 22/4/1997.
– Trưởng Nguyễn Phước
Hoàng (Tôn Thất Hoàng) gởi thư ngày 18/8/1997.
– Trưởng Nguyễn Phúc
Quỳnh Hòe gởi thư ngày 18/3/2000.
Đặc biệt là trong bài
nghiên cứu có tựa “Lịch sử Phong trào Hướng đạo Việt Nam” của Trưởng Lê Duy
Thước ghi ngày 31/05/1996 đã ghi lại sự kiện các huynh trưởng của 2 Hội HĐVN ở
2 miền Nam, Bắc VN đã cùng nhau thành lập một Ban Liên lạc HĐVN như sau: “Năm
1991, Anh Hoàng Đạo Thúy ( là người đã cùng với Trưởng Trần Văn Khắc sáng lập
Hội HĐVN) ký giấy ủy nhiệm cho 21 huynh trưởng Hướng đạo cũ, lập thành Ban Liên
lạc lâm thời Hướng đạo Việt Nam (Trưởng ban Nguyễn Dực, thư ký Lê Duy
Thước).Tháng 12/1991, Ban LLLT HĐVN tổ chức họp mặt truyền thống, có hơn 200
anh chị em Hướng đạo cũ đến dự. Họp ở hội trường lớn Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh
sáng 19/12/1991….
Tháng 05/1993, Ban Liên lạc LT HĐVN lại tổ chức cuộc họp
truyền thống Hướng đạo ở đình làng Đại Yên (Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội), có hơn
300 Hướng đạo sinh cũ về dự, trong số có gần 40 anh chị em cựu Hướng đạo hoạt
động ở miền Trung và miền Nam…”(8).
Tại sao Đảng CSVN và
Nhà nước VN không quan tâm trả lời các đơn, thư, kiến nghị xin tái lập hội của
các huynh trưởng Hội HĐVN ? Sự im lặng như thể xác nhận những lời nói lờ mờ
rằng Hội HĐVN 1946 bị “ngừng hoạt động” là do “ý ở trên”(?).
Mãi đến khi Nghị
định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 Quy định về tổ chức, hoạt
động và quản lý hội được ban hành thì các huynh trưởng Hội HĐVN mới vui mừng
chào đón cơ hội tái lập Hội HĐVN. Sau 46 năm kể từ ngày có Sắc lệnh 102 năm
1957, nay Chính phủ mới ban hành “Thể lệ lập hội”, mà theo đó quyền
thành lập Hội HĐVN của các huynh trưởng đã có được cơ sở pháp lý để tiến hành
thủ tục tái lập Hội HĐVN, thực hiện quyền công dân của mình theo các quy định
của pháp luật chứ không phải làm những bản “kiến nghị” xin xỏ gởi các cấp lãnh
đạo như trước.
2/
Hội HĐVN dưới chính thể Quốc gia Việt Nam và VNCH (gọi là Hội HĐVN 1953):
Hội HĐVN được thành
lập dưới chính thể Quốc gia Việt Nam bằng một Nghị định riêng có tên “Nghị
định số 326-NĐ/TN ngày 9/2/1953 của ông Bộ Trưởng Bộ Thanh niên và Thể thao” là
Vũ Hồng Khanh ký tên, đã “chiếu Dụ số 10 ngày 6/8/1950, ấn định thể lệ lập
hội”, “chiếu Dụ số 24 ngày 19/11/1952, sửa đổi Dụ số 10 ngày 6/8/1950″ và “chiếu
đơn số 003-HT-HĐ ngày 12/6/1952 của ông Hội trưởng Hướng đạo Việt Nam” để
ban hành Nghị định này và có ghi rõ tại Điều thứ nhất là “Hội HĐVN được
phép hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam, theo bản điều lệ đính kèm theo nghị
định này”. Chính Hội HĐVN thứ hai được thành lập ngày 9/2/1953 dưới chính thể
Quốc gia Việt Nam đã gia nhập WOSM và được công nhận là một Tổ chức Hội viên
của WOSM vào năm 1957.
Hội HĐVN 1953 này đã
có điều kiện phát triển ổn định cho đến năm 1975. Trong quãng thời gian đó Hội
HĐVN 1953 tuy đã sửa đổi Điều lệ (Quy trình) vào các năm 1959, năm 1962 và năm
1967 nhưng vẫn giữ nguyên là một tổ chức xã hội có “mục đích giáo dục
thanh thiếu nhi trong toàn cõi VN về ba phương diện: đức, thể, thực theo tôn
chỉ và phương pháp Hướng đạo”, “không phân biệt tôn giáo, chủng tộc và quốc
tịch”, “không hoạt động và cổ động chính trị”. Tính đến ngày 31/12/1974, Hội
HĐVN 1953 có tổng số đoàn sinh và huynh trưởng đóng bảo hiểm là 14.432 người,
trong đó có 2.204 huynh trưởng.
Do “phương pháp Hướng đạo” có tính chất rất đặc
biệt, còn gọi là “phương pháp hàng đội tự quản”, bao gồm các nhóm nhỏ tự
quản dưới sự hướng dẫn của huynh trưởng, nên không thể phát triển số lượng đoàn
sinh nếu không có đủ huynh trưởng phụ trách. Vì vậy, dù được hoạt động tự do,
Hội HĐVN 1953 sau 22 năm, cũng chỉ có thể phát triển tối đa là trên 12.000 đoàn
sinh trên toàn miền Nam VN mà thôi.
Con số này là quá ít nếu so sánh với số
lượng đoàn viên Đoàn Thanh niên CS Hồ Chí Minh hiện nay và không tính đến số
lượng các em trong Đội Thiếu niên tiền phong HCM: “Theo báo cáo của Đại hội
Toàn quốc lần thứ VIII Đoàn TNCS HCM (2007) thì tại VN hiện có khoảng 6,1 triệu
đoàn viên. Theo BBC thì tại Tp.HCM, thành phố lớn nhất VN, vào năm 2005 có
khoảng 70% thanh niên đang đứng ngoài hàng ngũ Đoàn TNCS (khoảng 390.000 đoàn
viên trên tổng số 2,3 triệu người từ độ tuổi 16 đến 30)” (9). Cũng vào năm
2006, trên toàn VN, ước tính có khoảng trên 4.000 đoàn sinh và huynh trưởng
HĐVN đang sinh hoạt nhưng phần lớn tập trung ở Tp.HCM.
Do quyền tự do lập hội
được quy định rất rõ ràng trong Dụ số 10 năm 1950 và được thực thi trong thực
tế nên hoạt động của Hội HĐVN 1953 đã tạo được tiếng vang là một phong trào có
mục đích giáo dục thanh thiếu nhi bằng “hình thức và phương pháp Hướng đạo” rất
đăc biệt, bổ sung cho giáo dục gia đình và giáo dục học đường, rèn luyện các em
trở thành những đứa con tốt, những học trò tốt và những công dân tốt.
Những
Hướng đạo sinh khi trưởng thành đã tham gia hoạt động chính trị trong các đảng
phái với tư cách công dân – tương tự như các HĐS là đảng viên Đảng CSVN dưới
chính thể ở miền Bắc. Tiếng tốt do hoạt động của Hội HĐVN đã khiến cho các tổ
chức tôn giáo và các lực lượng quân đội, cảnh sát ở miền Nam cũng muốn xây dựng
một tổ chức tương tự, áp dụng “hình thức và phương pháp Hướng đạo” để giáo dục
cho con em trong tổ chức, lực lượng của mình có được những phẩm chất tốt đẹp
như các Hướng đạo sinh trong Hội HĐVN. Có thể nêu ra một số tổ chức, lực lượng
như sau:
– Gia đình Phật tử: Do
thời điểm xuất hiện của Gia đình Phật tử với hình thức tổ chức và phương pháp
giáo dục có nhiều điểm tương tự như của Hội HĐVN khiến cho nhiều người cho rằng
Hội HĐVN là mô hình giáo dục thanh thiếu nhi đã được chuyển hóa thành Gia đình
Phật tử. Vào những ngày 24, 25, 26/4/1951, tại Thuận Hóa – Huế, Đại hội Gia
đình phật hóa phổ họp tại chùa Từ Đàm gồm đại biểu của 9 tỉnh miền Trung gồm
Thừa Thiên, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Lâm Viên, Bình Thuận,
Dran, Đồng Nai Thượng và Hà Nội, Hải Phòng. Tại Đại hội này, tên “Gia đình Phật
tử Việt Nam” được thay cho Gia đình Phật hóa phổ và một bản Nội quy cũng được
ra đời từ đây.
Qua 9 lần đại hội từ 1951 – 1973 Gia đình Phật tử VN đã từng
bước trưởng thành trong lòng các Giáo hội đương nhiệm, Từ 4 Gia đình Phật hóa
phổ đầu tiên tại Huế, lên đến 812 Gia đình Phật tử thuộc 48 tỉnh, thành tại
miền Nam, với 7.200 huynh trưởng và 72.600 đoàn sinh (theo báo cáo của Đại hội
năm 1973 tại Đà Nẵng).
Cuộc họp lịch sử ngày 19/10/1997 tại Thiền viện Vạn Hạnh
(Tp.HCM) ra đời một bản thông báo có chữ ký của Hòa thượng Thích Minh Châu và 4
huynh trưởng cấp Dũng gởi đến toàn thể huynh trưởng và đoàn sinh GĐPTVN đề nghị
tu chỉnh một số điều trong Nội quy và Quy chế huynh trưởng của GĐPT cho phù hợp
với Hiến chương của Giáo hội PGVN.
Cũng trong năm này, Đại hội Phật giáo toàn
quốc lần thứ IV diễn ra tại Hà Nội, GĐPTVN được chính thức công nhận, ghi vào
Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Chương V Điều 19, nay là Điều 21). Năm
1998, GHPGVN thành lập các Ban Hướng dẫn Phật tử từ Trung ương đến các tỉnh,
thành. Ngành Cư sĩ phật tử do Chư tăng trực tiếp lãnh đạo, ngành Gia đình Phật
tử do Huynh trưởng điều hành theo chủ trương, đường lối của Giáo hội Phật giáo
VN (10).
Nghị định của Chính
phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý
hội có ghi rõ tại Điều 1, Khoản 1, điểm b rằng “Nghị định này không áp dụng với
các tổ chức: – Các tổ chức giáo hội”. Tức là các tổ chức thuộc Giáo hội Phật
giáo VN như Gia đình Phật tử và Tịnh độ Cư sĩ không là đối tượng thuộc phạm vi
điều chỉnh của Nghị định, không cần phải xin phép theo thủ tục thành lập hội
của Nghị định này.
-
Hướng đạo Công giáo, Hướng đạo Cao đài, Hướng đạo Tin lành: Về mặt pháp lý, một “tổ chức” theo quy định của pháp luật dân sự
chỉ được công nhận là có tư cách pháp nhân khi có đủ các điều kiện: Được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công
nhận; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác
và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ
pháp luật ( tham chiếu Điều 94 BLDS 1995).
Theo đó, dưới chính thể ở miền Nam
VN từ 1948 đến 1975, chỉ duy nhất một Hội HĐVN 1953 có tư cách pháp nhân được
pháp luật Quốc gia Việt Nam công nhận và được WOSM công nhận tư cách hội viên
từ năm 1957. Trong các bản Điều lệ (Quy trình) của Hội HĐVN năm 1953, được sửa
đổi năm 1959, năm 1962 và năm 1967 đều có quy định “không phân biệt tôn giáo”.
Trong tất cả các bản Điều lệ đó đều có một điều khoản ghi: “Hội lấy tên chánh
thức là Hội “HƯỚNG ĐẠO VIỆT NAM” viết tắt là “H.Đ.V.N” những chữ “HƯỚNG ĐẠO”
trong tên này thuộc sở hữu tuyệt đối của Hội”. Và trong tất cả các bản Điều lệ
của Hội HĐVN 1953 đều không có một dòng hay một chữ nào về “Hướng đạo Công
giáo”, “Hướng đạo Cao đài”, “Hướng đạo Tin lành”.
Do đó không có mối liên hệ
hoặc mối tương quan pháp lý nào giữa Hội HĐVN 1953 với các tổ chức thuộc các
tôn giáo này. Các tôn giáo này nếu tồn tại cái gọi là “Hướng đạo”, trong thực
tế thì đó là bộ phận thuộc về các giáo hội chủ quản chớ không phải là một bộ
phận thuộc cơ cấu tổ chức của Hội HĐVN 1953. Giữa Hội HĐVN 1953 và các Giáo hội
Công giáo, Giáo hội Cao đài, Giáo hội Tin lành cũng không hề có một thỏa hiệp
gì để xác lập mối liên hệ giữa một tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân là Hội
HĐVN và các Giáo hội đó. Việc các cá nhân hoặc tổ chức nào đó tự xưng là “Hướng
đạo” + “Tôn giáo” là ngoài phạm vi trách nhiệm pháp lý của Hội HĐVN 1953.
Xin được lưu ý một vấn
đề liên quan như sau: Điều lệ của Hội HĐVN 1953 quy định là “không phân biệt
tôn giáo” nên chỉ coi các huynh trưởng và đoàn sinh là “Hướng đạo sinh theo
Phật giáo”, “HĐS theo Công giáo”, “HĐS theo Tin lành”, “HĐS theo Cao đài”… và
tất cả các hội viên của Hội HĐVN đều sinh hoạt chung với nhau theo cơ cấu tổ
chức đã được quy định trong bản Điều lệ chớ không hề phân biệt tôn giáo, không
tách riêng từng đơn vị, bộ phận gọi là “Hướng đạo Công giáo”, “Hướng đạo Tin
lành”, “Hướng đạo Cao đài”.v.v… Thế nhưng, trong 3 tôn giáo nêu trên chỉ có
Giáo hội Công giáo là có công bố một bản “Quy chế Hướng đạo Công giáo Việt Nam”
(viết tắt HĐCGVN) được Tổng Giám mục Phao lô Nguyễn Văn Bình phê chuẩn và ban
phép thi hành ở Sài Gòn ngày 8/1/1965.
Bản Quy chế HĐCGVN này cũng xác định mục
đích giáo dục bằng “phương pháp Hướng đạo” nhưng lại xác định thêm tôn chỉ
“Phụng sự Thiên Chúa và Giáo hội” và HĐCGVN là hội đoàn phụ tá đứng trong Tổ
chức Công giáo tiến hành. Bản Quy chế HĐCGVN đã không tự xây dựng cho mình một
cơ cấu tổ chức có hệ thống riêng với lực lượng huynh trưởng và đoàn sinh riêng
như bản Nội quy Gia đình Phật tử của Giáo hội Phật giáo VN mà lại tự xác lập
cho mình quyền “can thiệp” vào một tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân và có
bản Điều lệ được chính quyền phê duyệt là Hội HĐVN, lấy lực lượng đoàn sinh và
huynh trưởng có sẵn trong Hội HĐVN làm lực lượng của mình.
Xin dẫn chứng từ bản
Quy chế HĐCGVN hành vi “vượt quá khôn khổ pháp luật” của Giáo hội Công giáo VN
khi ban hành Quy chế đơn phương “chiếm hữu” lực lượng đoàn sinh của Hội HĐVN
1953 mà không dựa trên một căn cứ pháp lý nào cả. Đó là việc trong Quy chế
HĐCGVN đã cho mình quyền thành lập các “Đạo” và “Đơn vị” HĐCG từ các đoàn sinh
và huynh trưởng đang có sẵn trong Hội HĐVN 1953 khi quy định rằng: “Đạo: Tại
mỗi tỉnh hay thành phố lớn, nếu có đủ đơn vị HĐCG hoặc nam hoặc nữ, Văn phòng
Trung ương sẽ can
thiệp với Bộ Tổng ủy viên của Hội liên quan, để thành lập
một Đạo riêng cho HĐCG”, và …” Đơn vị có thể thâu nhận các HĐS ngoài Công
giáo, miễn là có sự đồng ý của phụ huynh; các đoàn sinh này không buộc phải dự
các lễ nghi Công giáo cũng như các lớp huấn luyện Giáo lý.
Số đoàn sinh ngoài
Công giáokhông được vượt
quá 2/5 tổng số. Dĩ nhiên Đơn vị trưởng phải là Công giáo”. Quy định như thế
trong bản Quy chế HĐCGVN là đi ngược với tôn chỉ “không phân biệt tôn giáo”
trong bản Điều lệ Hội HĐVN 1953 và giữa Giáo hội CGVN với Hội HĐVN 1953 cũng
chưa từng ký kết một thỏa hiệp gì về việc Hội HĐVN 1953 thừa nhận hay áp dụng
bản Quy chế HĐCGVN. Sau nữa, một quy định trong bản Quy chế HĐCGVN có tính chất
xâm phạm quyền tự quyết của Hội HĐVN là: “- Khi xảy ra trường hợp một trong hai
Hội vi phạm nguyên lý căn bản của Phong trào HĐ, nhất là điều thuộc về Tôn
giáo; – Khi xảy ra trường hợp những người lãnh đạo một trong hai Hội có thái độ
kỳ thị rõ rệt đối với Tôn giáo hoặc đối với các Trưởng Công giáo có khả năng
tham gia Hội đồng Trung ương hay Bộ Tổng ủy viên của Hội đó.
Trong hai trường
hợp này, HĐCGVN sẽ bày tỏ lập trường và đưa đề nghị để Hội sửa chữa. Nếu không
giải quyết xong, lúc đó các đơn vị HĐCGVN sẽ buộc lòng phải tách khỏi Hội”. Một
bản Quy chế do một tôn giáo ban hành lại tự xác lập cho mình có quyền đơn
phương định đoạt việc tách, nhập các đơn vị, việc phong nhậm những trách vụ
lãnh đạo của một tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân như Hội HĐVN 1953, bất
chấp đến Điều lệ của hội và cả hệ thống pháp luật đương thời bảo hộ quyền và
lợi ích hợp pháp của hội đó, nghe ra không ổn, không “thượng tôn pháp luật”
chút nào (!).
Hơn nữa, việc sử dụng giáo quyền để “tách” các hội viên “khỏi”
Hội HĐVN 1953 chẳng phải đã xâm phạm đến quyền tự do lập hội mà trong đó bao
gồm cả quyền tự do vào hội và quyền tự do ra hội của công dân, thể hiện qua các
quy định: “Hội viên … có quyền ra khỏi hội bất cứ lúc nào” (Điều 3 Dụ số
10) và “Mọi người có quyền tự do vào hội thành lập hợp pháp, và có quyền tự do
ra hội. Không ai được xâm phạm quyền lập hội và quyền tự do vào hội, ra hội của
người khác” (Điều 2 Sắc lệnh năm 1957)?
Dẫu sao, trong văn thư đề ngày
09/10/2003, Đức Cha Phao lô Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN đã
cho biết “Chúng tôi đã chính thức đưa phong trào HĐCGVN vào hoạt động Công giáo
tiến hành của Giáo hội VN và Hội đồng Giám mục VN đã chính thức giới thiệu hoạt
động của HĐCG trong cuốn Giáo hội Công giáo VN niên giám 2003 của Hội đồng Giám
mục VN”.
Như vậy, từ năm 2003, HĐCGVN đã có thể xây dựng cho mình một cơ cấu,
tổ chức riêng, có lực lượng đoàn sinh riêng do mình xây dựng tương tự như Gia
đình Phật tử VN. Và cũng tương tự như Gia đình Phật tử VN, HĐCGVN là một hội
đoàn phụ tá đứng trong Công giáo tiến hành của Giáo hội Công giáo VN nên không
cần phải xin phép theo thủ tục thành lập hội trong Nghị định Chính phủ số
88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003.
-
“Hướng đạo Cảnh sát VN” và “Hướng đạo Quân đội VN”:
Lực lượng Cảnh sát và
Quân đội dưới chính thể VNCH cũng muốn áp dụng các “hình thức và phương pháp Hướng đạo”
để giáo dục con em của họ nên sau năm 1968 đã tự thành lập tổ chức “Hướng đạo”
+ “Lực lượng” tương tự như trường hợp của các tổ chức tôn giáo. Tất nhiên là
với các quy định của pháp luật đương thời và Điều lệ của Hội HĐVN 1953, không
hề có mối liên hệ gì giữa Hội HĐVN 1953 vốn là một tổ chức xã hội “phi chính
trị” thể hiện trong Điều lệ hết sức minh bạch, với các lực lượng vũ trang thuộc
chính thể đó. Và tất nhiên, Hội HĐVN 1953 cũng không thể làm gì được khi các
lực lượng Cảnh sát và Quân đội đương thời muốn sử dụng 2 từ “Hướng đạo” ghép
chung với tên gọi của tổ chức do các lực lượng này lập ra, tương tự như với
trường hợp các tôn giáo ở VN.
III. Các
văn bản của tổ chức Đảng CSVN và cơ quan Nhà nước VN đã vượt ra ngoài khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, xâm phạm quyền tự do lập hội của các HĐS Hội HĐVN như
thế nào ?
1/
Các văn bản của tổ chức Đảng CSVN:
a/ Thông báo số
143-TB/TW ngày 20/4/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng CSVN:
Sau khi Chính phủ ban
hành Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động
và quản lý hội, thì các huynh trưởng của cả 2 Hội HĐVN 1946 ở miền Bắc và Hội
HĐVN 1953 ở miền Nam đều vui mừng chuẩn bị tiến hành thủ tục nộp đơn xin phép thành
lập một Hội HĐVN thống nhất trên cả nước. Nhưng trong khi các huynh trưởng HĐVN
chưa kịp nộp đơn xin thành lập hội thì ngày 20/4/2004 – tức là chưa tới 9 tháng
sau ngày Chính phủ ban hành Nghị định, Ban Bí thư Trung ương Đảng CSVN đã có
văn bản số 143-TB/TW chỉ đạo các tổ chức Đảng CSVN và các cơ quan Nhà nước VN
thực hiện nhiều biện pháp ngăn cấm các “hoạt động Hướng đạo” và “không đặt vấn
đề tái lập tổ chức Hướng đạo, cũng như tránh lập thêm các hội, đoàn mới”. Xin
trích dẫn nội dung chính yếu trong Thông báo 143-TB/TW ngày 20/4/2004 của Ban
Bí thư TW như sau: “Hoạt động Hướng đạo du nhập vào VN từ đầu thế kỷ 20.
Từ sau
kháng chiến chống Pháp, ở miền Bắc tổ chức Hướng đạo đã ngừng hoạt động và gia
nhập Hội Liên hiệp Thanh niên VN, trong khi ở miền Nam hoạt động Hướng đạo tiếp
tục phát triển và phân hóa, ngoài tổ chức Hướng đạo chính thống, Mỹ ngụy xây
dựng các loại Hướng đạo trong tôn giáo, quân đội, cảnh sát… Sau năm 1975 tất cả
các tổ chức này mặc nhiên giải thể. Tuy nhiên, những năm gần đây, phong trào
Hướng đạo VN nói chung và ở Tp.HCM nói riêng đang tái phát triển một cách tự
phát và diễn biến phức tạp. Có nhiều nhóm tổ chức Hướng đạo đang hoạt động,
sinh hoạt ngày càng thường xuyên, có nền nếp, bài bản và công khai hơn.
Các
nhóm Hướng đạo tuy có sự khác nhau, thậm chí mâu thuẫn về quan điểm và đường
hướng hoạt động, nhưng đều mong muốn được Nhà nước chính thức cho phép tái lập
tổ chức Hướng đạo; cả một số cán bộ, đảng viên trước đây vốn là huynh trưởng
Hướng đạo cũng ủng hộ nguyện vọng này. Nhiều nhóm đã liên tục gởi đơn xin phép
chính quyền cho phép tái lập, mặt khác không ngừng hoạt động ngầm để phát triển
lực lượng một cách tự phát ngoài khuôn khổ pháp luật, chuẩn bị chờ Nhà nước cho
phép tái lập.
Trong các nhóm Hướng đạo nói trên, ngoại trừ nhóm Hướng đạo chính
thống, các hệ phái Hướng đạo khác ở Tp. HCM hiện nay đều có gắn với tôn giáo,
tâm linh, hoạt động có tính chính trị. Nhiều tổ chức có quan hệ móc nối với các
phần tử phản động và số cầm đầu các nhóm Hướng đạo ở hải ngoại và với tổ chức Hướng
đạo thế giới, với sứ quán, lãnh sự quán Mỹ ở VN để tuồn thông tin, vu cáo chế
độ ta, xin chỉ đạo và tài trợ cho hoạt động của mình.
Các tổ chức Hướng đạo
Công giáo, Cao đài, Tin Lành công khai dùng phương pháp hoạt động Hướng đạo để
giáo dục tôn giáo, thực hiện tôn chỉ của các giáo hội được các giáo xứ và nhà
thờ ủng hộ mạnh mẽ về vật chất và tinh thần…”; “… Hiện nay, ở nước ta đã có
nhiều hội, đoàn thể với đối tượng bao gồm mọi giới, mọi lứa tuổi đang hoạt
động, nếu chính thức cho tái lập thêm tổ chức Hướng đạo thì sẽ dẫn đến tranh
giành lực lượng, tranh giành quần chúng giữa Hướng đạo với các tổ chức đã có và
tạo ra tiền lệ đa nguyên trong tổ chức quần chúng, làm phức tạp thêm tình hình
chính trị xã hội.
Nếu tổ chức Hướng đạo được tái lập, các hội, đoàn khác như
Gia đình Phật tử, Tịnh độ Cư sĩ… cũng đòi hỏi được công nhận thì sẽ rất phức
tạp. Vì vậy không đặt vấn đề tái lập tổ chức Hướng đạo, cũng như tránh lập thêm
các hội, đoàn mới”.
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 4 mới được quy định trong Hiến pháp 2013: “Đảng
CSVN…, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình”; và căn cứ vào Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính
2010: “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức khác hoặc
người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một
vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với
một hoặc một số đối tượng cụ thể”, tôi xin trình bày ý kiến phản biện đối với
các nội dung trong Thông báo 143-TB/TW như sau:
– “Từ sau kháng chiến
chống Pháp, ở miền Bắc tổ chức Hướng đạo đã ngừng hoạt động và gia nhập Hội
Liên hiệp Thanh niên VN” :
Nội dung này trong Thông báo 143-TB/TW nhằm phủ định sự tồn tại của Hội HĐVN
1946 từ sau ngày thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên VN năm 1957 mà không đưa ra
được một căn cứ hay chứng cứ nào để chứng minh cho sự “ngừng hoạt động” của Hội
HĐVN 1946. Chúng ta đều biết rằng, trong Luật La Mã đã hình thành nguyên tắc:
“Trách nhiệm chứng minh thuộc về người khẳng định, chứ không thuộc về người phủ
định” (Ei incumbit probatio qui dicit, non qui negat / The burden of the proof
lies upon him who affirms, not he who denies). Nguyên tắc này cũng được quy
định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự về “nghĩa vụ chứng minh” và tại Điều 10
Bộ luật tố tụng hình sự về “Xác định sự thật của vụ án” theo đó “trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng…”.
Do Thông báo
143-TB/TW không nêu ra được căn cứ hay chứng cứ hợp pháp để chứng minh rằng Hội
HĐVN 1946 đã “ngừng hoạt động” nên nội dung “Từ sau kháng chiến chống Pháp, ở
miền Bắc tổ chức Hướng đạo đã ngừng hoạt động” bị coi là lời nói “thất
thiệt” cho đến khi Ban Bí thư TW đưa ra được chứng cứ hợp pháp về sự ngừng hoạt
động của Hội HĐVN 1946. Thêm nữa, ngay phần nội dung tiếp theo là “…và gia nhập
Hội Liên hiệp Thanh niên VN” lại chứng minh sự tồn tại hợp pháp của Hội HĐVN
1946 sau khi đã “gia nhập” Hội LHTNVN.
Bởi vì chúng ta đều biết trong Bộ luật
dân sự 1995 và Bộ luật dân sự 2005; cũng như trong Nghị định 88/2003 và Nghị
định 45/2010 đều có quy định về các trường hợp chấm dứt pháp nhân, chấm dứt hội
là: hợp nhất, sáp nhập, chia, giải thể, phá sản. Không thấy có văn bản pháp
luật nào quy định rằng một pháp nhân khi “gia nhập” vào một pháp nhân khác lại
bị chấm dứt pháp nhân của mình.
Có thể đã có sự hiểu sai về khái niệm pháp lý
“gia nhập” là đồng nghĩa với “sáp nhập” trong nội dung này của Thông báo
143-TB/TW. Bởi vì, ngay trong Điều lệ của Hội LHTNVN cũng có nói rõ: “Hội
LHTNVN là tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên và các tổ chức thanh niên
VN…”; trong đó bao gồm 2 loại hội viên là cá nhân “công dân” và “thành viên tập
thể của hội”. Hội HĐVN 1946 chính là thành viên tập thể của Hội LHTNVN. Chưa
cần xem xét đến các chứng cứ khác như Thẻ đại biểu của Hội HĐVN 1946 tham dự
Đại hội toàn quốc Hội LHTNVN lần thứ 2 năm 1961 và văn bản của Hội HĐVN 1946
ngày 5/2/1965 đã bác bỏ nội dung này …
Như vậy, ngay trong nội dung “Từ
sau kháng chiến chống Pháp, ở miền Bắc tổ chức Hướng đạo đã ngừng hoạt động và
gia nhập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam” của Thông báo 143-TB/TW đã cho
thấy không dựa vào một căn cứ hay chứng cứ pháp lý nào để chứng minh cho lời
nói này; đó là chưa nói đến các chứng cứ khác đã bác bỏ hoàn toàn nội dung này
như: Thẻ đại biểu của Hội HĐVN 1946 tham dự Đại hội toàn quốc Hội LHTNVN lần
thứ 2 năm 1961 và văn bản của Hội HĐVN 1946 ngày 5/2/1965 chứng minh sự tồn tại
hợp pháp của Hội HĐVN 1946 sau khi gia nhập Hội LHTNVN.
– “… trong khi ở
miền Nam hoạt động Hướng đạo tiếp tục phát triển và phân hóa, ngoài tổ chức
Hướng đạo chính thống, Mỹ ngụy xây dựng các loại Hướng đạo trong tôn giáo, quân
đội, cảnh sát… Sau năm 1975 tất cả các tổ chức này mặc nhiên giải thể.”: Như đã
trình bày ở phần trên, ở miền Nam VN chỉ có một Hội HĐVN duy nhất có tư cách
pháp nhân được thành lập hợp pháp năm 1953, những loại hình gọi là “Hướng đạo
trong tôn giáo” như trong Thông báo 143 đề cập chỉ là sự “ăn theo tiếng thơm”
của Hội HĐVN mà thôi.
Các tôn giáo ở VN hiện nay, nếu muốn thành lập các hội
đoàn tương tự như Hội HĐVN, nay đã có quyền thành lập hội đoàn cho riêng mình
theo quy định tại Khoản 6, Điều 3 của Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo số
21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18/6/2004 mà không cần phải làm thủ tục xin phép theo
Nghị định của Chính phủ số 88/2004/NĐ-CP ngày 30/7/2004. Chỉ có những loại hình
“HĐ Cảnh sát” và “HĐ Quân đội” mang tính chất chính trị ngay trong tên gọi là
trái với tôn chỉ “phi chính trị” của Hội HĐVN 1953 nên mới “mặc nhiên giải thể”
cùng với lực lượng cảnh sát và quân đội của chính thể VNCH sau năm 1975. Do đó,
Thông báo 143 nói rằng “Sau năm 1975 tất cả các tổ chức này mặc nhiên giải thể”
bao gồm cả Hội HĐVN 1953 là cố ý quy chụp theo kiểu “vơ đũa cả nắm” chớ không
dựa trên căn cứ hoặc chứng gứ hợp pháp nào cả.
– “Trong các nhóm
Hướng đạo nói trên, ngoại trừ nhóm Hướng đạo chính thống, các hệ phái Hướng đạo
khác ở Tp. HCM hiện nay đều có gắn với tôn giáo, tâm linh, hoạt động có tính
chính trị. Nhiều tổ chức có quan hệ móc nối với các phần tử phản động và số cầm
đầu các nhóm Hướng đạo ở hải ngoại và với tổ chức Hướng đạo thế giới, với sứ
quán, lãnh sự quán Mỹ ở VN để tuồn thông tin, vu cáo chế độ ta, xin chỉ đạo và
tài trợ cho hoạt động của mình.
Các tổ chức Hướng đạo Công giáo, Cao đài, Tin
Lành công khai dùng phương pháp hoạt động Hướng đạo để giáo dục tôn giáo, thực
hiện tôn chỉ của các giáo hội được các giáo xứ và nhà thờ ủng hộ mạnh mẽ về vật
chất và tinh thần…”. Nội dung này của Thông báo 143 đã đề cập đến trường hợp
những hành vi, của những cá nhân nào đó lợi dụng danh nghĩa của tổ chức hoặc phe
nhóm vi phạm pháp luật quốc gia hoặc xâm phạm an ninh quốc gia. Đây chỉ là
những lời quy chụp chính trị cho Hội HĐVN mà thôi chớ chúng ta đều biết rằng
trong Bộ Luật hình sự của nước CHXHCNVN có quy định về “Cơ sở của trách nhiệm
hình sự” tại Điều 2 như sau: “Chỉ người nào phạm một hay nhiều tội đã được Bộ
Luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Tức là trách nhiệm
hình sự chỉ áp dụng cho cá nhân, cho “người nào”, chớ pháp nhân như Hội HĐVN
không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong Phong trào Hướng đạo VN từ sau 1975
đến nay, chưa nghe đến trường hợp có một Hướng đạo sinh nào, bao gồm huynh
trưởng và đoàn sinh, bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì “hoạt động Hướng đạo”
như Thông báo 143 đề cập. Cũng theo quy định của Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”; và
trong thực tế, chưa nghe nói đến trường hợp một HĐS nào của Hội HĐVN 1953 sau
năm 1975 đã bị kết án do hành vi như được mô tả trong Thông báo 143.
– “Hiện nay, ở nước ta
đã có nhiều hội, đoàn thể với đối tượng bao gồm mọi giới, mọi lứa tuổi đang
hoạt động, nếu chính thức cho tái lập thêm tổ chức Hướng đạo thì sẽ dẫn đến
tranh giành lực lượng, tranh giành quần chúng giữa Hướng đạo với các tổ chức đã
có và tạo ra tiền lệ đa nguyên trong tổ chức quần chúng, làm phức tạp thêm tình
hình chính trị xã hội. Nếu tổ chức Hướng đạo được tái lập, các hội, đoàn khác
như Gia đình Phật tử, Tịnh độ Cư sĩ… cũng đòi hỏi được công nhận thì sẽ rất phức
tạp. Vì vậy không đặt vấn đề tái lập tổ chức Hướng đạo, cũng như tránh lập thêm
các hội, đoàn mới”. Luận cứ trong nội dung này của Thông báo 143 là hoàn toàn
không chính xác và mâu thuẫn ngay với chính mình. Xin được dẫn chứng:
Ở phần
đầu Thông báo 143 xác định rằng “Hoạt động Hướng đạo du nhập vào VN từ đầu thế
kỷ 20″ … và Phong trào Hướng đạo đã hoạt động liên tục từ đầu thế kỷ 20 cho đến
đầu thế kỷ 21 là ngày có Thông báo 143 (20/4/2004); vậy sao có thể nói rằng
“nếu cho tái lập thêm tổ chức Hướng đạo thì sẽ … tạo ra tiền lệ đa nguyên trong tổ
chức quần chúng”?
Còn Gia đình Phật tử và Tịnh độ Cư sĩ đã hoạt động hợp pháp
trong Giáo hội Phật giáo VN từ năm 1997-1998 với Quy chế riêng, được ghi
vào Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Chương V Điều 19, nay là Điều 21),
sao Thông báo 143 lại nêu ra trường hợp này một cách bất cập như vậy? Còn
nếu căn cứ vào thông tin báo Pháp luật Tp.HCM đăng tải tại trang 3, ngày
5/12/2013 về số lượng “hội quần chúng” mà Bộ Nội vụ đã rà soát được vào cuối
năm 2013: “Kết quả rà soát của Bộ Nội vụ cho thấy cả nước hiện có 460 hội hoạt
động ở phạm vi toàn quốc, hơn 2.900 hội hoạt động ở phạm vi tỉnh, gần 5.200 hội
quy mô huyện và hơn 28.300 hội cấp xã.
Trong số này, khá nhiều tổ chức là
do Đảng thành lập hoặc chỉ đạo thành lập, được giao thực hiện các nhiệm vụ
chính trị-xã hội, có tham gia vào xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật…”
(11), thì lập
luận trong Thông báo 143 rằng “nếu chính thức cho tái lập thêm tổ chức Hướng
đạo thì sẽ dẫn đến tranh giành lực lượng, tranh giành quần chúng giữa Hướng đạo
với các tổ chức đã có và tạo ra tiền lệ đa nguyên trong tổ chức quần chúng, làm
phức tạp thêm tình hình chính trị xã hội” sẽ là
một lập luận hoàn toàn không có căn cứ và trái với sự thật khách quan.
Tóm lại, cùng chung số
phận với nhân dân và đất nước Việt Nam từ 1945 đến 1975, Hội HĐVN đã từng bị
chia cắt làm hai và có cơ hội hợp nhất sau ngày đất nước thống nhất năm 1975.
Các huynh trưởng của Hội HĐVN đã nhiều lần gửi đơn, thư, kiến nghị đến lãnh đạo
tổ chức Đảng CSVN và cơ quan Nhà nước VN trong suốt hơn 20 năm để xin phép tái
lập hội. Nhưng trước nguyện vọng chính đáng và hợp pháp đó của các huynh trưởng
HĐVN, Đảng CSVN và Nhà nước VN đều không thèm trả lời.
Tình hình này cũng đã
được Thông báo 143-TB/TW ngày 20/4/2004 xác nhận “Nhiều nhóm đã liên tục gởi
đơn xin phép chính quyền cho phép tái lập, mặt khác không ngừng hoạt động ngầm
để phát triển lực lượng một cách tự phát ngoài khuôn khổ pháp luật, chuẩn bị
chờ Nhà nước cho phép tái lập”. Đến khi Chính phủ ban hành Nghị định số
88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội thì
Ban Bí thư TW đã nhanh chóng (chỉ hơn 8 tháng sau) đưa ra Thông báo 143-TB/TW
thể hiện ý chí, động cơ không chính đáng, trái với sự thật khách quan và trái
pháp luật là không muốn “tạo ra tiền lệ đa nguyên trong tổ chức quần chúng”.
Thông báo 143 đã đưa ra lý do giả tạo, không có căn cứ và chứng cứ hợp pháp về
trường hợp Hội HĐVN 1946 là “Từ sau kháng chiến chống Pháp, ở miền Bắc tổ chức
Hướng đạo đã ngừng hoạt động và gia nhập Hội Liên hiệp Thanh niên VN”.
Thông
báo 143 cũng đã đưa ra những quy chụp chính trị chớ không chứng minh được
là đã có hành vi vi phạm pháp luật gì của tổ chức xã hội “không hoạt động và cổ
động chính trị” là Hội HĐVN 1953 ở miền Nam. Từ đó, Thông báo 143 đã có quyết
định: “Vì vậy không đặt vấn đề tái lập tổ chức Hướng đạo, cũng như tránh lập
thêm các hội, đoàn mới”; và chỉ đạo các tổ chức Đảng CSVN và cơ quan Nhà nước
VN thực hiện quyết định này: “Giao Ban Dân vận Trung ương theo hướng trên
đây chủ trì, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc VN, Bộ Nội vụ, các đoàn thể, ban
ngành có liên quan và cấp ủy của các địa phương có các tổ chức Hướng đạo đang
hoạt động chuẩn bị đề án tổng thể để giải quyết vấn đề này trình Ban Bí thư vào
cuối quý II năm 2004″.
Nội dung “giải quyết vấn đề này” trong Thông báo 143 bao
hàm ý nghĩa “ngăn cấm, xóa bỏ hoạt động Hướng đạo”, tức là “xâm phạm quyền tự
do lập hội của HĐS Việt Nam” được quy định trong Hiến pháp, các văn bản pháp
luật của VN và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966. Do đó,
căn cứ vào quy định của Luật tố tụng hành chính tại Điều 3 và Điều 5, coi Thông
báo 143-TB/TW là một “quyết định hành chính” và các cá nhân, tổ chức là các
Hướng đạo sinh và Hội HĐVN được quyền khởi kiện vụ ánh hành chính đối với Thông
báo 143-TB/TW để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo
Luật tố tụng hành chính.
Ngoài ra, Điều 7 Sắc lệnh 102 năm 1957 và Điều 129 Bộ
luật hình sự cũng quy định “Người nào xâm phạm đến quyền lập hội…” hoặc “Người
nào có hành vi cản trở công dân thực hiện quyền lập hội…”, tức là có bao gồm cả
những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức …đã làm ra các
quyết định hành chính xâm phạm đến quyền lập hội của công dân, cản trở công dân
thực hiện quyền lập hội, có thể bị truy tố trước Tòa án theo Điều 7 Sắc lệnh
102 năm 1957 hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 129 BLHS.
b/ Thông báo số
157-TB/TW ngày 20/5/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng CSVN:
Sau 4 năm chỉ đạo các
cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các đoàn thể quần chúng triển khai thực hiện
chủ trương trong Thông báo 143-TB/TW ngày 20/4/2004 của Ban Bí thư TW. “Tuy
nhiên, việc thực hiện chủ trương trên vẫn còn nhiều hạn chế”, “việc giải quyết
vấn đề Hướng đạo chưa mang lại kết quả như mong muốn” nên Ban Bí thư TW tiếp
tục có Thông báo số 157-TB/TW ngày 20/5/2008 để chỉ đạo “Ban cán sự đảng Chính
phủ chủ trì, phối hợp với Ban Dân vận Trung ương Mặt trận Tổ quốc VN, Đoàn
Thanh niên CS HCM, các đoàn thể, ban, ngành có liên quan và các tỉnh ủy, thành
ủy có hoạt động Hướng đạo, lập
kế hoạch cụ thể thực hiện chủ trương không tái lập tổ chức
Hướng đạo”. Trong Thông báo số 157-TB/TW ngày 20/5/2008 Ban Bí thư TW chỉ đạo 7
nội dung, riêng nội dung thứ 4 là rất đặc biệt, xin được trích dẫn:
“4- Đoàn Thanh niên
Công sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam phối hợp với Bộ Giáo
dục và Đào tạo nghiên cứu, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, rèn luyện
thanh niên, thiếu niên, nhi đồng; tiếp thu có chọn lọc hình thức, phương pháp của Hướng đạo trong
giáo dục và tổ chức hoạt động của thanh thiếu niên; đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa
dạng, chính đáng về sinh hoạt vui chơi, giải trí lành mạnh, bổ ích, thu hút thế
hệ trẻ tham gia vào các hoạt động của tổ chức đoàn, hội, đội”.
Nội dung số 4 Thông
báo 157 là một sự công nhận của Ban Bí Thư TW rằng Hội HĐVN đã sở hữu một “hình
thức và phương pháp giáo dục” vô cùng bổ ích cho thanh thiếu niên, cần phải đưa
vào áp dụng trong hoạt động của tổ chức đoàn, hội, đội. Tuy nhiên, bên cạnh
việc lập lại chỉ đạo các tổ chức đảng, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể tiếp
tục thực hiện những hành vi cản trở, xâm phạm đến quyền lập hội của HĐS VN như
tại Thông báo 143 trước, trong Thông báo 157 này còn cho thấy một việc làm rất
đáng chê trách về mặt đạo lý; đó là việc làm tương tự như trong “câu chuyện
tham lam và độc ác giết con gà hàng xóm, mổ bụng lấy trứng vàng đặt vào bụng gà
nhà mình”.
Đã
từng có “tiền lệ” là các
tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Cao đài, Tin Lành và các lực lương chính trị
như Cảnh sát, Quân đội dưới chính thể VNCH cũng “tiếp thu hình thức, phương
pháp Hướng đạo trong giáo dục và tổ chức hoạt động của thanh thiếu niên” trong
tôn giáo và lực lượng của mình nhưng không có tôn giáo hay lực lượng nào đòi
“cắt cổ, mổ bụng” Hội HĐVN để lấy “trứng vàng” cả.
Nhân đây, xin được trình
bày thêm về cái gọi là “phương pháp Hướng đạo”. Trong bản “Dự thảo Điều lệ Hội
HĐVN” (14/02/2014) do một số huynh trưởng HĐVN biên soạn, đã định nghĩa về
“Phương pháp Hướng đạo” như sau:
“Phương pháp Hướng đạo
là một hệ thống tự giáo dục tiến bộ bằng cách:
– Giữ Lời hứa và Luật
Hướng đạo.
– Học hỏi bằng thực
hành.
– Tổ chức theo hàng
đội tự quản dưới sự hướng dẫn của huynh trưởng để biết dấn thân, khám phá tiến
bộ và nắm được các kỹ năng sống; biết phát huy chí khí, tính tự lực và tinh
thần trách nhiệm; biết tạo lập sự tin cậy, khả năng hợp tác và lãnh đạo.
– Tham gia những sinh
hoạt hào hứng theo sở thích bằng các trò chơi ngoài trời tiếp xúc với thiên
nhiên, những hoạt động hữu ích cho cộng đồng, những công tác xã hội thiện
nguyện.”
Trong “Phương
pháp Hướng đạo” bao gồm 2 nguyên tắc quan trọng, thể hiện trong “Lời hứa Hướng
đạo” và “Luật Hướng đạo” là:
– Nguyên tắc “Bổn phận
đối với tha nhân” (Duty to others) được thể hiện trong một phần của Lời hứa:
“Giúp ích mọi người bất cứ lúc nào”.
– Nguyên tắc “Bổn phận
đối với bản thân” (Duty to self) được thể hiện trong 10 điều Luật Hướng đạo
nhưng đặc biệt nhất là Điều số 10: “Hướng đạo sinh trong sạch từ tư tưởng, lời
nói đến việc làm.”
“Phương pháp Hướng đạo” có những tính chất rất đặc biệt mà không
một tổ chức nào khác trên thế giới có được từ trước đến nay. Tuy nhiên, với
nguyên tăc “Giúp ích mọi người bất cứ lúc nào” nên Hội HĐVN luôn luôn hoan
nghênh các tổ chức khác áp dụng “hình thức, phương pháp Hướng đạo” để giáo dục
và tổ chức hoạt động của thanh thiếu niên trong tổ chức mình. Hội HĐVN chưa bao
giờ thể hiện sự “độc quyền chân lý” và ngăn cản các tổ chức khác áp dụng các
“hình thức và phương pháp Hướng đạo” của hội mình.
c/ Bản Kế hoạch số
47-KH/TU ngày 20/4/2009 của Thành ủy Tp.Hồ Chí Minh:
Lý do Thành ủy TP.HCM
lập ra bản Kế hoạch – dài 4 trang giấy, được nêu ra ngay ở phần đầu là “Để
nghiêm túc triển khai thực hiện Thông báo số 157-TB/TW ngày 20/5/2008 của Ban
Bí thư TW về hoạt động Hướng đạo hiện nay tại một số tỉnh, thành phố…”. Có nhiều
nội dung được ghi trong bản Kế hoạch của Thành ủy bao gồm công tác phổ biến,
quán triệt và biện pháp tổ chức thực hiện Thông báo số 157-TB/TW ngày 20/5/2008
mà tôi không thể kể hết ra đây được nên chỉ xin nêu ra nội dung đặc biệt tại
Khoản 3.3 và 2.4 trong bản Kế hoạch này tương tự như câu chuyện giết con gà của
người khác lấy trứng vàng đưa vào bụng gà mình như sau:
– “3.3 Thành đoàn tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn TNCS HCM, Hội LHTN, Đội
Thiếu niên TP HCM. Tiếp thu có chọn lọc hình thức, phương pháp Hướng đạo… Tiếp
tục xây dựng, phát huy, nhân rộng mô hình Câu lạc bộ Sao Bắc Đẩu từ thành phố
đến các quận, huyện”.
Câu lạc bộ Sao Bắc Đẩu
được Thành đoàn Tp.HCM lập ra có hình thức sinh hoạt và đồng phục không khác gì
với các đơn vị Hướng đạo Hội HĐVN. Các em trong Câu lạc bộ Sao Bắc Đẩu được
công khai sinh hoạt trong các công viên, các địa điểm công cộng từ thành phố đến
các quận, huyện; được ngân sách hổ trợ kinh phí hoạt động.
– Trong khi đó: “2.4
Đối với các tôn giáo có tổ chức Hướng đạo, các chức sắc tôn giáo phụ trách các
liên đoàn, Hướng đạo Công giáo, giao Sở Nội vụ (Ban Tôn giáo – Dân tộc) nắm
tình hình và vận động, giải thích, đấu tranh”. Ở
đây, xin được nêu ra trường hợp cụ thể của Đạo Xuân Hòa thuộc Hội HĐVN, được
thành lập từ năm 1957, là đơn vị Đạo trong Châu Gia Định.
Từ 1975 đến 1980, Đạo
Xuân Hòa tạm ngưng hoạt động nhưng từ 1980, Đạo Xuân Hòa là đơn vị đầu tiên
phục hoạt dưới sự hướng dẫn của Đạo trưởng Trần Văn Hợp. Trong Đạo Xuân Hòa có
số đông đoàn sinh và huynh trưởng theo đạo Công giáo nên thường sinh hoạt “chui” trong các cơ
sở tôn giáo để tránh sự xua đuổi của chính quyền. Trưởng Trần Văn Hợp đã từng
bị chính quyền, công an mời lên “đấu tranh” gần cả chục lần về các “hoạt động
Hướng đạo”.
Xin được trích dẫn biên bản cuộc họp ngày 23/4/2004 tại Giáo
xứ Tân Định, Quận 3, Tp.HCM, để có thể thấy được phần nào hình ảnh các em Hướng
đạo sinh theo đạo Công giáo bị chính quyền “đấu tranh” qua lời của một nữ huynh
trưởng HĐ và một Linh mục huynh trưởng HĐ thuộc Gia đình Hướng đạo Xuân Hòa:
“Trưởng Võ Thị Thanh
Thủy: Chúng con đại diện cho Đạo Biển Đông rất đồng tình với Trưởng Đức và
Trưởng Hiến. Chúng con thấy rằng chúng con sinh hoạt rất là khổ sở, có những
lúc chúng con phải
chui vào nhà cốt để sinh hoạt. Phải mặc thường phục, thậm chí phải chế ra các
loại áo thung thêu hoa Bách hợp nho nhỏ. Chúng con chơi trong
các giáo xứ được các cha xứ ủng hộ.”
“Linh mục Trần Văn Hộ: …
Các nơi chơi lén,
như Liên đoàn của chị Tâm sinh hoạt tại giáo xứ Hòa Bình của tôi tại khu vườn ngoài nghĩa địa, nhưng
tôi nhắc chị Tâm nếu cho các em đeo phù hiệu thì tôi biết ăn nói làm sao, còn
chơi cứ việc chơi. Nhưng chị Tâm nói, thỉnh thoảng phải làm như vậy các em mới
thích. Nói vậy chứ tôi vẫn ủng hộ. Thực tế tôi cũng bị mời làm việc để hỏi tôi
có phải Tuyên úy HĐ không. Tôi vẫn trả lời có, và tôi cũng nói cho họ biết tôi
đã tham dự lễ truy điệu cụ Hoàng Đạo Thúy, Đại tá Quân đội Cụ Hồ là một Trưởng
cao cấp trong Hội HĐVN.” (12)
Chắc rằng trong số
trên 200 tổ chức Hướng đạo thuộc các quốc gia, vùng, lãnh thổ trên thế giới,
không có nơi nào mà các em HĐS “phải chui vào nhà cốt để sinh hoạt” hoặc “chơi
lén ngoài nghĩa địa” của các giáo xứ, nhờ sự che chở của các cha xứ và phải hóa
trang “mặc thường phục, thậm chí phải chế ra các loại áo thung thêu hoa Bách
Hợp nho nhỏ” (hoa Bách Hợp là huy hiệu chính thức của Hội HĐVN) ! Trong trả lời
của Linh mục Trần Văn Hộ, có nhắc đến “cụ Hoàng Đạo Thúy, Đại tá Quân đội Cụ Hồ
là một Trưởng cao cấp trong Hội HĐVN” nhưng không thấy nêu ra tên vị “DANH DỰ
HỘi TRƯỞNG” Hội HĐVN, vì sợ phạm húy chăng ?
Đọc hết nội dung bản
Kế hoạch dài 4 trang ngày 20/4/2009 của Thành ủy Tp.HCM nhằm “xóa sổ” hoạt động
Hướng đạo trên địa bàn dễ tạo cảm giác “dùng dao mổ trâu để giết gà”. Và mặc dù
phải chịu đựng bao hệ quả khắc nghiệt của các Thông báo và Kế hoạch của tổ chức
Đảng CSVN, con gà Phong trào HĐVN vẫn sống sót, được các quốc gia thuộc ASEAN
mời tham gia thành lập Hội Hướng đạo các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN Scout
Association for Regional Co-operation ( viết tắc ASARC).
Trưởng Phạm Thanh Hiệp
đã đại diện cho HĐVN cùng ký tên với 7 đại diện của các Hội Hướng đạo quốc gia
trong khu vực ASEAN trên bản Hiến chương ngày 4/12/2010 của ASARC. Do Phong
trào HĐVN chưa được chính quyền VN cấp phép hoạt động chính thức nên Phong trào
HĐVN chỉ được ASARC công nhận tư cách là “Quan sát viên” (Observer) mà thôi.
(13)
2/
Các văn bản của cơ quan Nhà nước Việt Nam:
a/ Văn bản số 1507/BVHTTDL-TCCB
ngày 17/5/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: (14)
Đây là một “quyết định
hành chính” theo quy định của Luật tố tụng hành chính, khi Bộ VHTT&DL trả
lời bác Đơn xin phép cho tiếp tục phục hồi “chơi Hướng đạo” – tức là tái lập
Hội HĐVN, do ông Đặng Văn Việt nộp cho Bộ VHTT&DL. Nội dung lý do bác đơn
của Bộ VH,TT&DL là: “Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có thông báo về hoạt
động Hướng đạo hiện nay tại một số tỉnh, thành phố và chỉ rõ: ‘không đặt vấn đề
tái lập tổ chức Hướng đạo cũng như thành lập thêm các hội, đoàn mới’. Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch thông báo để ông biết”.
Bất cứ ai đọc nội dung văn bản trả lời của Bộ VHTT&DL cũng
đều nhận thấy là Bộ VHTT&DL đã không biết hoặc không cần biết đến Hiến pháp
và các văn bản pháp luật khác quy định về “quyền tự do lập hội” mà công dân
Đặng Văn Việt được bảo hộ. Bộ VHTT&DL cho thấy chỉ viện dẫn Thông báo của
Ban Bí thư TW Đảng CSVN là đủ. Văn bản trả lời của Bộ VHTT&DL mặc định rằng
Thông báo của Ban Bí thư TW Đảng CSVN có hiệu lực pháp lý cao hơn Hiến pháp và
các văn bản pháp luật khác của nước CHXHCNVN quy định quyền tự do lập hội của
công dân Đặng Văn Việt.
Từ ngày Bộ VHTT&DL
ra “quyết định hành chính” này (17/5/2011), không thấy ông Đặng Văn Việt nộp
đơn khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính của Bộ VHTT&DL
bác đơn xin tái lập Hội HĐVN của ông; bao hàm cả Thông báo của Ban Bí thư TW
được Bộ VHTT&DL viện dẫn làm căn cứ pháp lý trong văn bản của mình. Đây
cũng là lần đầu tiên, một cơ quan cấp Bộ chính thức đưa ra một quyết định hành
chính về việc “xin tái lập Hội HĐVN” mà chỉ viện dẫn một Thông báo của Ban Bí
thư TW Đảng CSVN vượt ra ngoài “khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” để làm căn cứ
cho quyết định hành chính của mình.
b/ Văn bản số
164/SNV-VP ngày 08/02/2013 của Sở Nội vụ Tp.Hồ Chí Minh: (15)
Đây cũng là một “quyết
định hành chính” theo quy định của Luật tố tụng hành chính, theo đó, Sở Nội vụ
Tp.HCM trả lời bác đơn xin thành lập “Hội Hướng đạo sinh thành phố Hồ Chí Minh”
của ông Phạm Thanh Hiệp. Nội dung lý do bác đơn của Sở Nội vụ Tp.HCM là: “vì
hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều tổ chức hoạt động của giới trẻ
như Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí
Minh, Hội Liên hiệp thanh niên, Hội Sinh viên”.
Với lý do nêu ra để bác đơn của Sở Nội vụ Tp.HCM hẳn là mỗi
người đều có thể tự đưa ra những “phản biện” rất thú vị. Ở đây, xin nêu ra vài
điểm đáng lưu ý:
– Ông Phạm Thanh Hiệp
và Phong trào HĐVN có thể được các nước ASEAN chấp nhận tham gia ASARC với tư
cách “Quan sát viên” nhưng vẫn không được Sở Nội vụ Tp.HCM cho phép lập hội vì
xét thấy không cần một tổ chức như Hội Hướng đạo sinh cho thanh thiếu niên
thành phố do ông Hiệp đứng xin thành lập.
– Cho dù “Kết quả ra
soát của Bộ Nội vụ cho thấy cả nước hiện có 460 hội hoạt động ở phạm vi toàn
quốc, hơn 2.900 hội hoạt đông ở phạm vi tỉnh, gần 5.200 hội quy mô huyện và hơn
28.300 hội cấp xã” nhưng trong số “hơn
2.900 hội hoạt động ở phạm vi tỉnh”, Sở Nội vụ Tp.HCM vẫn không
tìm thấy còn chỗ trống cấp phép cho “Hội Hướng đạo sinh Tp.HCM” của ông Phạm
Thanh Hiệp (!).
Cho dù ông Hiệp có viện dẫn đến vị “DANH DỰ HỘI TRƯỞNG” Hội
HĐVN trong đơn và những điều tốt đẹp mà hoạt động Hướng đạo đã đóng góp vào
việc giáo dục thanh thiếu niên kể từ khi “du nhập vào VN từ đầu thế kỷ 20″ khi
chưa có Đoàn TNCSHCM, nhưng Sở Nội vụ Tp.HCM vẫn trả lời ông Hiệp là “hết vé”.
Cũng giống như trường
hợp ông Đặng Văn Việt, sau khi bị bác đơn, ông Phạm Thanh Hiệp không “kiện cáo”
gì với quyết định hành chính của Sở Nội vụ Tp.HCM mặc dù Luật tố tụng hành
chính có quy định quyền khởi kiện vụ án hành chính của công dân Phạm Thanh Hiệp
trong trường hợp bị bác đơn này.
Trên đây là khảo cứu
của một cựu Hướng đạo sinh Hội HĐVN về những khía cạnh pháp lý và lịch sử liên
quan đến Hội Hướng đạo Việt Nam từ khi được thành lập chính thức năm 1946 đến
nay nhằm có thể tìm thấy được sự thật khách quan cho câu hỏi làm tựa đề bài
viết: “Quyền tự do lập hội của các Hướng đạo sinh Việt Nam bị xâm phạm như thế
nào ?”
(11/2014)
NL
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền