Nhân
Quyền Việt Nam một năm nhìn lại
QUYỀN CÔNG DÂN, QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM CHỈ
LÀ BÁNH VẼ
Nguyễn Thu
Trâm, 8406 (Danlambao) - Vậy là Việt Nam đã trải qua đúng một năm trong vai
trò thành viên Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, sau khi được đắc cử vào ngày
12 tháng 11 năm 2013, tại khóa họp thứ 68. Nhưng thật đáng tiếc, trong tư cách
thành viên của một tổ chức danh giá này, nhà nước cộng sản Việt Nam lại tiếp
tục lập lại những bước đi lầm lạc trong bóng tối gian ác của chủ nghĩa cộng sản
và đã tiếp tục lập những thành tích nhân quyền đầy ô nhục và đáng xấu hổ.
Tất
nhiên để được bầu vào tổ chức này, vào ngày 7 Tháng 11 năm 2013 Việt Nam đã cho
thế giới ăn một quả lừa thật đáng giá bằng cách cam kết tham gia Công ước chống
Tra Tấn và Trừng Phạt hoặc Đối Xử Tàn Nhẫn, Vô Nhân Đạo Làm Mất Phẩm Giá khác
của Liên Hiệp Quốc - United Nations Convention Against Torture and Other Cruel,
Inhuman or Degrading Treatment or Punishment (UNCAT). Bởi vì sau khi đã cam kết
tham gia công ước này rồi các tù nhân chính trị và lương tâm vẫn tiếp tục bị
ngược đãi, bị tra tấn, bị trừng phạt, bị đối xử tàn nhẫn vô nhân đạo và bị chà
đạp lê nhân phẩm của họ ở khắp tất cả các nhà tù trong cả nước. Thậm chí vẫn có
không ít các nghi phạm bị bắt giam rồi bị tra tấn cho đến chết trong các trại
tạm giam trong thời gian điều tra xét hỏi, khi chưa xác định được liệu các nghi
can đó có thực sự phạm tội hay không.
Tất
nhiên vốn là một nhà nước dối trá, tráo trở và khủng bố cộng sản Việt Nam vẫn
tiếp tục liếm lại những gì chúng đã nhổ ra, tiếp tục chà đạp lên những điều
chúng đã cam kết cho nên dẫu đã là một thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên
Hiệp Quốc, với vai trò giám sát, theo dõi các vấn đề về nhân quyền ở các quốc
gia thành viên nhằm kịp thời ngăn chặn những hành động vi phạm nhân quyền, vô
nhân đạo, phản dân chủ của các chính phủ đó đối với nhân dân của họ, thì ngược
lại, cộng sản Việt Nam càng vi phạm nghiêm trọng về các quyền làm người, quyền
sống căn bản của người dân Việt Nam bằng những hành động trấn áp, khủng bố, bắt
giam và truy tố một cách tùy tiện những người yêu nước, đấu tranh ôn hòa bằng
ngôn luận trong nỗ lực cải cách dân chủ và thăng tiến đất nước.
Để
lừa bịp các tổ chức quốc tế nhân quyền và các quốc gia hằng quan tâm đến thực
trạng nhân quyền ở Việt Nam, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ thiện
chí cải cách dân chủ, cải thiện nhân quyền bằng cách phóng thích một số tù nhân
lương tâm đã bị hành hạ trong các nhà tù qua nhiều chục năm và đến nay đã cận
kề với lưỡi hái tử thần, như các ông Bảo Giang Nguyễn Tuấn Nam, cựu dân biểu Lê
Văn Tính, Cựu Sĩ Quan QLVNCH Trần Tư... Đồng thời cũng "cho sang Mỹ chữa
bệnh theo nguyện vọng của cá nhân đối với hai tù nhân lương tâm Cù Huy Hà Vũ và
Điếu Cày Nguyễn Văn Hải. Nhưng mặt khác nhà cầm quyền cũng không quên tăng
cường sách nhiễu đàn áp và khủng bố, hành hung, thậm chí là mưu sát các cựu tù
nhân lương tâm khác bằng đủ mọi tủ đoạn đê hèn và bẩn thỉu nhất. Không những
chỉ bản thân những cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa,
Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Vi Đức Hồi, Phạm Văn Trội, Nguyễn Vũ Bình,
Huỳnh Ngọc Tuấn, Nguyễn Bắc Truyển, Phạm Minh Hoàng, Trương Minh Đức, Nguyễn
Đan Quế, Thích Thiện Minh... bị hành hung, bị khủng bố và mưu sát mà thân nhân
của họ cũng thường xuyên bị sách nhiễu và khủng bố. Không những chỉ các nhà
hoạt động nhân quyền Nguyễn Hoàng Vy, Huỳnh Thục Vy, Trần Thị Nga, Tuyến Xích
Lô, Nguyễn Kim Tiến... cùng các dân oan bị hành hung, bị mưu sát mà cả thân
nhân của họ cũng thường xuyên nhận được những lời đe dọa đến an ninh tính mạng
từ phía nhà cầm quyền. Không những chỉ các tù nhân lương tâm bị ngược đãi và
tra tấn cả tinh thần lẫn thể xác một cách man rợ trong các nhà tù mà thân nhân
của họ ở quê nhà cũng thường xuyên bị sách nhiễu và khủng bố. Phải chăng đây là
tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội? Phải chăng đây là tính đặc trưng của một nhà
nước "của dân, do dân và vì dân" kiểu Hồ Chí Minh?
Vụ
việc dàn dựng cảnh gây rối trật tự cộng cộng gây tắc nghẽn giao thông trên trên
một tuyến giao thông nông thôn liên xã Mỹ An Hưng - Long Hưng thuộc huyện Lấp
Vò tỉnh Đồng Tháp vào ngày 12 tháng 02 năm 2014 để hành hung dã man các tín đồ
Phật Giáo Hòa Hảo, để giam giữ họ và để truy tố phạt tù các nhà hoạt động nhân
quyền Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh chẳng những là
một hành động đốn mạt đến mức không thể đốn mạt hơn của nhà cầm quyền cộng sản
Việt Nam đối với đồng bào Việt Nam là thần dân của họ, mà còn là một sự chà đạp
thô bỉ lên những cam kết mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã đưa ra trước
cộng đồng quốc tế về những cải thiện về dân chủ và nhân quyền khi Việt Nam đàm
phán để gia nhập vào tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO từ tháng 01 năm 1995 cho
đến tháng 01 năm 2007, khi họ ứng cử vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc năm
2013 và ngay cả vào thời điểm này khi Việt Nam đang tiếp tục đàm phán để gia
nhập Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương CPP. Vậy thì nhà nước cộng
sản Việt Nam là kiểu nhà nước gì, liệu có gì khác biệt so với kiểu nhà nước Hồi
Giáo IS, và liệu các nhà lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam hiện nay
có thua gì những tên trùm khủng bố Bin Laden, Ayman al-Zawahiri, Nasir al Wuhayshi,
Ibrahim Hassan al-Asiri, Moktar Belmoktar, Abu Muhammad al-Julani, Abu Bakr
al-Baghdadi và Sirajudin Haqqani...? Liệu tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước
cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn San và Hồ Chí
Minh cùng thuộc hạ có thua gì các trùm diệt chủng Hitler, Stalin, Mao Trạch
Đông, Pol Pot, Iêng Sary... về mức độ dã man tàn bạo?
Việc
hành hung cả ông Emmanuel Ly Batallan Tổng lãnh sự Pháp tại thành Hồ vào ngày
05 tháng 11 vừa qua khi ông Tổng Lãnh Sự ghé thăm cựu tù nhân lương tâm Nguyễn
Bắc Truyển tại nhà cựu tù nhân chính trị Phạm Minh Hoàng trên đường Bà Hạt, Sài
gòn và việc liên tục bắt giam các nhân sĩ, trí thức Việt Nam là những người bày
tỏ chính kiến của mình trên trang nhật ký cá nhân Hồng Lê Thọ vào ngày 29 tháng
11, Nguyễn Quang Lập vào ngày 6 tháng 12 và việc bắt giữ ông Nguyễn Đình Ngọc
(theo một số thông tin có thể là Nguyễn Ngọc Già) vào ngày 27 tháng 12
vừa qua cho thấy sự mỉa mai đến chua chát về một thành viên của Hội Đồng Nhân
Quyền Liên Hiệp Quốc lại có những hành vi vi phạm nhân quyền đến mức thô bạo và
có hệ thống đến thế. Như thế này đây liệu đã đủ tiêu chuẩn để Nguyễn Phú Trọng,
Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang... và đồng bọn được sánh vai với các nhà độc
tài đẫm máu nhất của thế kỷ: Enver Pasha (Thổ Nhĩ Kỳ), Kim Il Sung (Bắc Hàn),
Hồ Chí Minh (miền Bắc Việt Nam), Pol Pot (Campuchia), Saddam Hussein (Iraq),
Yahya Khan (Pakistan), Hideki Tojo (Nhật Bản), Vladimir Lenin (Liên Xô), Chiang
Kai-shek (Trung Quốc), Adolf Hitler (Đức), Joseph Stalin (Liên Xô), Mao Trạch
Đông (Trung Quốc). Và Như thế này đây đã đủ chưa các tiêu chí để cộng đồng quốc
tế xếp Việt Nam vào hạng nhà nước khủng bố?
VÀ
ĐÂY, NHỮNG TÊN ĐỘC TÀI KHÁT MÁU NHẤT THẾ KỶ 20 VÀ 21
Enver Pasha (Thổ Nhĩ Kỳ)
Số người tử vong: 1,1-2,5 triệu
Năm cầm quyền: 5 (1913-1.918)
Tội phạm: diệt chủng người Armenia
Chế độ: Quân Sự
Nguyên nhân chết : thiệt mạng trong chiến đấu
Kim Il Sung (Bắc Hàn)
Số người tử vong: 1,6 triệu
Năm cầm quyền: 46 (1.948-1.994)
Tội phạm tàn ác nhất: chiến tranh ở Hàn Quốc
Loại chế độ: cộng sản
Nguyên nhân chết: cơn đau tim
Hồ Chí Minh (miền Bắc Việt Nam)
Số người tử vong: 1,7 triệu +
Năm cầm quyền: 24 (1945-1969)
Tội phạm tàn ác nhất: chiến tranh ở Việt Nam
Loại chế độ: cộng sản
Nguyên nhân của sự chết: suy tim
Số người chết 1,7-2,4 triệu
Năm nắm quyền: 4 (năm 1975-1979)
Các tội phạm tàn ác nhất: nạn diệt chủng ở Cam-pu-chia
Loại chế độ: cộng sản
Nguyên nhân của cái chết: bệnh tim
Số người chết: 2 triệu
Năm nắm quyền: 34 (1.969-2.003)
Tội phạm tàn ác nhất: diệt chủng người Kurd
Loại cai trị: độc tài
Nguyên nhân của sự chết: bị treo cổ
Yahya Khan (Pakistan)
Số người chết từ 2-12000000
Năm nắm quyền: 2 (1969-1971)
Tội phạm tàn ác nhất: diệt chủng ở Bangladesh
Loại chế độ cai trị : quân chủ
Nguyên nhân của cái chết: unknown
Số người chết: 4 triệu
Năm nắm quyền: 3 (1.941-1944)
Các tội phạm tàn ác nhất: giết hại thường dân trong chiến
tranh thế giới thứ II
Loại chế độ : quân sự
Nguyên nhân của sự chết: bị treo cổ ngày 23 tháng 12, 1948
Số người chết: 4 triệu
Năm nắm quyền: 7 (1917-1924)
Tội phạm tàn ác nhất: Chiến tranh dân sự ở Nga
Loại chế độ: cộng sản
Nguyên nhân của sự chết:Giang mai do quan hệ với gái điếm
Hirohito (Nhật Bản)
Con số nạn nhân: 6 triệu
Năm nắm quyền: 62 (1926-1989)
Các tội phạm khủng khiếp nhất: vụ thảm sát ở Nam Kinh
Loại chế độ: quân chủ
Nguyên nhân của sự chết: bệnh ung thư
Chiang Kai-shek (Trung Quốc)
Số người chết: 10 triệu
Năm nắm quyền: 18 (1928-1949)
Tội phạm tàn ác nhất: sự cố 228 (giết mổ tại Đài Loan vào năm 1947)
Loại chế độ : quân chủ
Nguyên nhân của sự chết: suy thận
Adolf Hitler (Đức)
Số người chết từ 17 đến 20 triệu
Năm nắm quyền: 11 (1.934-1945)
Tội phạm tàn ác nhất: Holocaust
Loại chế độ: phát xít
Nguyên nhân của cái chết: Tự sát
Joseph Stalin (Liên Xô)
Số người chết 40-62 triệu
Năm nắm quyền: 12 (1941-1953)
Tội phạm tàn ác nhất: hệ thống Gulag
Loại chế độ: cộng sản
Nguyên nhân chết: cơn đau tim
Mao Trạch Đông (Trung Quốc)
Số người chết từ 45 đến 75 triệu
Năm nắm quyền: 34 (1.943-1.976)
Tội phạm tàn ác nhất: nạn đói lớn tại Trung Quốc
Loại chế độ: cộng sản
Nguyên nhân chết: cơn đau tim
Trọng, Sang, Dũng Hùng
Liệu
các nhà độc tài Sang, Trọng, Hùng, Dũng có đoán định được cái chết của mình sẽ
bằng hình thức nào vào ngày tàn của chế độ cộng sản Việt Nam chưa? Ngay cả ở
bên kia thế giới, oan hồn của hàng triệu nạn nhân của chế độ cộng sản cũng sẽ
khó lòng để cho các vị được yên. Hãy ăn năn tội và hãy có những việc làm có ý
nghĩa trước muôn dân khi còn chưa quá muộn!
LẦN ĐẦU TIÊN “GIẢI-PHÁP VNCH” CHO TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG ĐƯỢC
TRÌNH BẦY TẠI THƯỢNG-VIỆN CANADA
Hội Nghị Bàn
Tròn về Biển Đông, Hiệp Định Paris 73 và TPP, Phần # 1
Hình Ảnh Hội
Nghị Bàn Tròn về Biển Đông ,Hiệp Định Paris 73 tại Quốc Hội Ottawa Canada Phần 2
Bài
thuyết-trình này đi sâu vào trong chi-tiết những vấn-đề như: (1) chủ-quyền
lịch-sử của VN trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa, ít nhất cũng từ TK 17;
(2) chủ-quyền này đã được quốc-tế công-nhận qua những hiệp-định quốc-tế như
Hiệp-định Hòa-bình San Francisco 1951 (có 51 nước tham-dự), Hiệp-định Genève
1954 chia đôi VN với HS-TS được xác-định rõ ràng là thuộc về miền Nam (sau là
VNCH), Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973 định nghĩa sự toàn vẹn lãnh-thổ của miền
Nam dựa trên định-nghĩa ở Genève, và Định-ước Quốc-tế do 12 nước ký dưới sự
chứng-kiến của Tổng-thư-ký Liên-hiệp-quốc vào ngày 2/3/1973 bảo đảm việc
thực-thi Hiệp-định Paris 1973. Như vậy thì chủ-quyền của VNCH trên hai quần-đảo
Hoàng-sa và Trường-sa đã quá rõ, không ai có thể phủ-nhận được.
Tâm Việt
Cali Today News - Hôm thứ Sáu vừa
qua, 5 tháng 12, 2014, tại Thượng-viện Quốc-hội Canada đã diễn ra một “Bàn tròn
về Tranh chấp Biển đảo ở Biển Đông/Nam-hải và bản Hiệp-định cuối cùng về
Hòa-bình ở Việt-nam vào năm 1973” (“The Roundtable on the South-China Sea
Territorial Dispute and the Final 1973 Peace Accord on Vietnam” trong tiếng Anh
và “La table ronde sur le conflit territorial en mer de Chine méridionale et
l’accord de paix final de 1973 sur the Vietnam” trong tiếng Pháp). Sở dĩ
sinh-hoạt này có tên trong hai thứ tiếng Anh-Pháp là vì mọi tài-liệu chính-thức
của Quốc-hội Canada đều phải được dịch sang hai thứ tiếng chính-thức của nước
này.
Đây là một bàn tròn do Thượng-nghị-sĩ Ngô Thanh Hải (TNS Canada
gốc Việt) tổ-chức với sự hiện diện và tiếp tay của TNS Lang, Chủ-tịch Ủy-ban
thường-trực về Quốc-phòng và An-ninh của Thượng-viện Canada, TNS Andreychuk,
Chủ-tịch Ủy-ban thường-trực về Ngoại-giao và Thương mại Quốc-tế, cũng như ông
David W. Kilgour, nguyên là Phó-Chủ-tịch Hạ-viện Canada và Bộ-trưởng Ngoại-giao
đặc-trách Á-châu/Thái-bình-dương. Trong thời-gian xảy ra cuộc bàn tròn,
người ta còn thấy có sự thăm viếng của mấy Thượng-nghị-sĩ khác nữa như TNS
Deepak Obhrai, Bộ-trưởng Quốc-hội về Ngoại-giao và Nhân-quyền cũng như TNS Tim
Uppal, Quốc-vụ-khanh về các vấn-đề Đa-văn-hóa.
Về phía Việt-nam tham-dự bàn tròn thì từ Mỹ có phái-đoàn dẫn đầu
bởi G.S. Nguyễn Ngọc Bích, Chủ-tịch Ban Điều hợp Trung-ương của Nghị-hội
(Toàn-quốc Người Việt tại Hoa-kỳ) đồng-thời là chủ-tịch Ủy-ban Lâm-thời VNCH.
Trong phái-đoàn đến từ Hoa-kỳ còn có cựu-Dân-biểu Bùi Văn Nhân (tức
ký-giả Vi Anh) đến từ Quận Cam, B.S. Nguyễn Thể Bình đến từ Washington, ông Hồ
Văn Sinh, phó-CT Ủy-ban Lâm-thời VNCH cũng đến từ Cali, riêng cựu-Dân-biểu Lý
Hiền Tài thì vào phút chót đã không sang được vì trục trặc giấy tờ. Đến
để ủng-hộ và yểm-trợ cho Ủy-ban có tới ba phái-đoàn lớn tới từ Montréal, Ottawa
và Toronto, gồm hầu hết là những bộ mặt quen thuộc trong giới đấu tranh trong
những năm qua ở xứ “đất lạnh tình nồng.”
Tỷ-dụ, đến từ Montréal là có cả
ông chủ-tịch Cộng-đồng và hai luật-sư của Cộng-đồng. Phái-đoàn Toronto
thì do ông Trần Quang Thọ hướng-dẫn và được đón tiếp ân-cần bởi Tiến-sĩ Lê Duy
Cấn, nguyên phó-Chủ-tịch Liên-hội Người Việt Canada, và ông Trịnh Vũ Điệp, một
thành-viên lâu đời của Liên-hội và cũng nguyên là một ủy-viên trong
Tổng-Liên-Hội Người Việt Tự Do (1991-1993). Riêng TS. Lê Duy Cấn, tuy mới
phục-hồi từ một biến-cố mạch máu não hiểm nghèo, cũng vẫn khoản đãi toàn-thể
các phái-đoàn từ Hoa-kỳ và các tỉnh-bang Canada về vào tối thứ Năm, 4 tháng 12,
ở tiệm Vietnam Palace. Được biết, ông còn là người chủ chốt đang thúc đẩy
Dự-án Bảo-tàng-viện Thuyền-nhân ở Canada từ nhiều năm nay. Ngay tại
Ottawa thì phái-đoàn khá hùng hậu với sự tham-gia đông đảo của các vị phụ nữ.
Tổng-cộng số người VN có mặt hôm đó cũng phải đến trên 50 người.
Phần trình bầy vấn-đề
Vì hôm 21/10 đã có một vụ khủng-bố Hồi-giáo xâm-nhập tòa nhà
Quốc-hội bắn chết mấy người nên việc kiểm-soát an-ninh để vào đã trở nên rất
gắt gao. Mặc dầu vậy, các phụ-tá của TNS Ngô Thanh Hải, đặc-biệt là cô
Tanya Wood và một luật-sư trẻ 22 tuổi, cô Julie Phạm, học ở trường đại-học
Carleton ra, đã tỏ ra rất niềm nở đón tiếp mọi người và hướng dẫn vào phòng họp
rộng rãi, trang trọng và thật đẹp. Bắt đầu từ 9 giờ sáng, đồng-bào ta đã
lục-tục tới. Sau khi được mời dùng cà-phê cho ấm lòng là những lời chào
hỏi nhau vì không phải là tất cả mọi người đều đã biết nhau. Mọi người
vui vẻ được thấy tấm lòng của nhiều vị mà sau gần 40 năm vẫn kiên trì với cuộc
đấu tranh. Gặp cô Phương Thu, cựu-hiệu-trưởng trường trung-học Bùi Thị
Xuân Đà-lạt, Giáo-sư Bích đã reo lên: “Trời, trên 50 năm rồi mới được gặp lại
Bạn!” Và bao lời hỏi han thân-tình để gợi lại kỷ-niệm từ những ngày còn
làm sinh-viên du-học ở Mỹ nửa thế-kỷ trước. Là một nhà giáo và là con của
cụ Trần Văn Khắc, một huynh-trưởng lão thành của Hướng đạo VN, cô Phương Thu từ
khi đến Canada vẫn một lòng phục-vụ ngành giáo-dục và xây dựng cả một trường
Việt-ngữ để giữ tiếng Việt cho các con em của đồng-bào trong vùng.
Đến đúng 11 giờ, phụ-tá của TNS Ngô Thanh Hải, ông Vincent
Labrosse mời mọi người vào chỗ để có thể bắt đầu bàn tròn. TNS Ngô Thanh
Hải đọc diễn-văn khai mạc. Ông cám ơn cử-tọa đã đến từ xa xôi, nhất là
phái-đoàn Hoa-kỳ, đến để bàn về “những căng thẳng ngày càng lên cao [ở Biển
Đông/Nam-hải]… có thể bùng lên bất cứ lúc nào thành một cuộc chiến khu-vực lôi
kéo những cường-quốc bên ngoài vào.” Vì nhiệm-vụ của Ủy-ban Thường-trực
về An-ninh Quốc-gia và Quốc-phòng ở Thượng-viện là phải nghiên cứu và báo-cáo
về các vấn-đề an-ninh quốc-phòng ở trong vùng Ấn-độ, Á-châu Thái-bình-dương
cũng như tiềm-lực ảnh-hưởng của những vấn-đề đó đến an-ninh quốc-phòng của
Canada nên ông rất mong “phát huy vai trò ngày càng lớn của Canada đối với vùng
ấy và khuyến khích việc tìm ra một giải-pháp hòa-bình và hợp pháp cho cuộc
tranh chấp trên biển đang diễn ra ở Biển Đông/Nam-hải.” Đi kèm theo bài
diễn-văn khai mạc của ông là một trang rưỡi những câu hỏi mà Ủy-ban của ông
mong được nghe một phần những câu trả lời trong bàn tròn ngày hôm nay.
Sau đó, TNS Ngô Thanh Hải đã lần lượt mời TNS Lang phát biểu về
tầm quan-trọng của bàn tròn. Ông Lang cho rằng chủ-nhân của Canada là
người dân Canada, và những TNS như ông có thì cũng chỉ là để phục-vụ người dân
Canada—trong đó có người Canada gốc Việt. Do đó nên ông rất mong được
nghe những sự góp ý của chúng ta. Đến lượt bà TNS Andreychuk, bà cho biết
bà không thể ở được nguyên ngày nhưng bà cũng rất mong được nghe phần trình bầy
chính để có thể hướng-dẫn chính-sách ngoại-giao và ngoại-thương của Canada.
Cựu-Dân-biểu David Kilgour thì cho rằng sự quan-tâm của ông đối với các
vấn-đề VN đã có từ xa xưa rồi ông kể một chuyến viếng thăm VN cùng với TNS Ngô
Thanh Hải cách đây ít năm, qua đó ông hiểu thêm được rất nhiều về sự thiếu vắng
nhân-quyền rất thậm-tệ ở VN.
Bắt đầu vào phần trình bầy, Bác-sĩ Nguyễn Thể Bình được yêu-cầu
đọc một lá thư mà cựu-Quốc-vụ-khanh VNCH, ông Lê Trọng Quát, viết từ Paris,
Pháp-quốc, gởi Thủ-tướng Stephen Harper của Canada và nhờ TNS Ngô Thanh Hải
chuyển đi giùm, nói lên ý-chí của người dân miền Nam phải được quyền tự-quyết
dân-tộc đúng như lời hứa của Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973.
Vào phần trình bầy chính của buổi hội, Giáo-sư Nguyễn Ngọc Bích đã
đọc tóm lược của một bài thuyết-trình sáu trang mà ông đã gởi trước lên Thượng-viện
Canada để được dịch sang tiếng Pháp và được in sẵn trong một hồ-sơ đầy đủ cho
các tham-dự-viên. Bài thuyết-trình này đi sâu vào trong chi-tiết những
vấn-đề như: (1) chủ-quyền lịch-sử của VN trên hai quần-đảo Hoàng-sa và
Trường-sa, ít nhất cũng từ TK 17; (2) chủ-quyền này đã được quốc-tế công-nhận
qua những hiệp-định quốc-tế như Hiệp-định Hòa-bình San Francisco 1951 (có 51
nước tham-dự), Hiệp-định Genève 1954 chia đôi VN với HS-TS được xác-định rõ
ràng là thuộc về miền Nam (sau là VNCH), Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973 định
nghĩa sự toàn vẹn lãnh-thổ của miền Nam dựa trên định-nghĩa ở Genève, và
Định-ước Quốc-tế do 12 nước ký dưới sự chứng-kiến của Tổng-thư-ký
Liên-hiệp-quốc vào ngày 2/3/1973 bảo đảm việc thực-thi Hiệp-định Paris 1973.
Như vậy thì chủ-quyền của VNCH trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa đã
quá rõ, không ai có thể phủ-nhận được. Dựa vào vai trò trung-lập và đứng
đắn của Canada qua sự hiện-diện của Canada trong hai ủy-hội quốc-tế đình chiến
1954 và hòa-bình 1973, ông Bích đề nghị Canada, một trong 12 quốc-gia có ký tên
trong Định-ước quốc-tế tháng 3/1973, có thể đứng ra vận-động tái-nhóm hòa-đàm
Paris để quyết-định phải trái trong việc Trung-Cộng xâm-chiếm Hoàng-sa bằng
vũ-lực vào tháng 1/1974 (vi-phạm sự toàn vẹn lãnh-thổ của miền Nam) và Hà-nội
cưỡng-chiếm miền Nam (vi-phạm toàn-bộ Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973) làm
triệt-tiêu quyền dân-tộc tự-quyết của người dân miền Nam. Mà trong một
hội-nghị Paris được tái-nhóm thì Bắc-kinh không có quyền phủ-quyết như họ có ở
Hội-đồng An-ninh LHQ, chặn đứng được mọi nỗ lực đem vấn-đề tranh chấp Biển Đông
ra trước quốc-tế.
Sau phần trình bầy của G.S. Nguyễn Ngọc Bích, Luật-sư Lâm Chấn Thọ
(Montréal) được mời trình bầy về những khía cạnh công-pháp quốc-tế. Ông
đạp đổ những luận-điệu mà ta thỉnh thoảng được nghe, cho rằng Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam (mà vào năm 1973 được gọi là “Chính-phủ cách mạng lâm-thời miền
Nam VN”) mới là quốc-gia kế-thừa VNCH: theo Luật-sư tất cả những bằng-chứng ta
có ngày hôm nay (từ Hà-nội hay thậm-chí cả từ miệng của những người đi theo Mặt
Trận như Trương Như Tảng, Nguyễn Văn Trấn, Tạ Bá Tòng v.v.) đều công-nhận Mặt
Trận là một con đẻ, một công-cụ trực-tiếp của Hà-nội nhằm xâm-chiếm miền Nam
thì nó làm gì có tư-cách độc-lập để mà đòi quyền gì. Ông Thọ còn đưa ra
những điều khoản trong Hiến-chương Liên-hiệp-quốc như Điều 2.4 cấm ngặt việc đi
xâm-chiếm nước khác bằng vũ-lực (do đó TC chiếm Hoàng-sa hay Việt-nam Dân-chủ
Cộng-hòa chiếm VNCH là hoàn-toàn bất hợp pháp).
Xong ông lại nêu Điều 3
và Điều 73 của Hiến-chương LHQ để chứng minh là một quốc-gia bị tạm-chiếm như
VNCH không hề mất chủ-quyền trên lãnh-thổ của mình, tóm lại một quốc-gia đi
xâm-chiếm nước khác không có quyền cắt xén lãnh-thổ của nước kia. Và cuối
cùng, một quốc-gia bị tạm-chiếm như nước Pháp dưới thời Hitler hay Tây-tạng
ngày hôm nay vẫn có quyền có một chính-phủ hợp pháp ngoài lãnh-thổ của mình
(thường được gọi là một “chính-phủ lưu-vong”) và chính chính-phủ của
cựu-Thủ-tướng Nguyễn Bá Cẩn, chính-phủ hợp pháp cuối cùng của VNCH, vào tháng
5/2009 đã nộp hồ-sơ về lãnh-hải của VNCH cho Ủy-ban về luật biển của
Liên-hiệp-quốc.
Sang phần thảo-luận
Bàn tròn đã tạm ngưng sau phần trình bầy chính của vấn-đề để cho
mọi người dùng cơm trưa. Sau bữa cơm trưa đơn sơ nhưng rất ngon, bàn tròn
tái nhóm để đi vào phần thảo-luận. Nhiều vấn-đề được nêu ra nhưng nói
chung đều đã được trả lời thỏa đáng. Riêng có vấn-đề “Chính-phủ cách mạng
lâm-thời miền Nam Việt-Nam” có được xem là một chính-phủ độc-lập và chính-danh
không là được xem khá gay go song cuối cùng, ai cũng phải công-nhận là vấn-đề
đó đặt ra cho vui vậy thôi chứ không thể bảo vệ được một cách hữu lý.
Trong phần thảo-luận cũng còn có sự tham-gia của một số chuyên-gia
Canada như Giáo-sư David Lametti của trường đại-học McGill, một chuyên-gia về
tài-sản trí-tuệ. Ông cho biết ông đã để ý đến các vấn-đề VN từ khi ông
còn rất trẻ, còn ở trung-học. Ông đã vui khi được tin về Hiệp-định
Hòa-bình Paris 1973 nhưng rồi vỡ mộng khi thấy Hoa-kỳ đã bội ước đối với VNCH.
Giờ đây, VNCS đang thương lượng với Mỹ và Canada để vào Hiệp-ước Đối-tác
xuyên Thái-bình-dương (TPP, Trans-Pacific Partnership). Nói chung thì
thương mại là một hoạt-động tốt cho nhân-loại nhưng nếu tiến-trình thương thảo
không được minh bạch thì có thể sẽ rất nguy-hiểm, nhất là về khía cạnh tài-sản
trí-tuệ. Do đó nên ông khuyến cáo Canada phải cẩn thận, phải đòi hỏi minh
bạch trong mọi chặng thương thuyết. Không có lý-do gì mà người dân hay cả
Quốc-hội lại phải dựa vào những tin rò rỉ ra từ các cuộc thương lượng.
Một luật-sư, ông Benoit, thì cho rằng những lập-luận của chúng ta
về phía VNCH rất vững vàng về mặt pháp-lý. Vấn-đề làm làm sao đem ra
áp-dụng, dụ được đối-phương, dụ được Trung-Cộng đi vào một tiến-trình
thương-thuyết hòa-bình.
Gần cuối buổi, cựu-Dân-biểu Bùi Văn Nhân yêu-cầu được phát biểu.
Theo ông, Việt-nam Cộng-hòa là một chính-thể chính-đáng và chính-thống
bởi chính-thể đó xuất phát từ sự lựa chọn của người dân qua những cuộc tuyển-cử
mà người dân thực-sự có quyền lựa chọn những tên tuổi, đảng phái ra tranh cử
với nhau.
Hiến-pháp VNCH 1967, chẳng hạn, là một hiến-pháp mẫu mực trong đó
có sự tam quyền phân-lập, cộng thêm một quyền thứ tư là quyền giám-sát mà ta
học được của Hiến-pháp Trung-hoa Dân-quốc. Tất cả những quyền tự do
căn-bản của người dân được tôn-trọng và thực-thi, như tự do ngôn-luận, tự do
báo chí, tự do tôn-giáo, tự do đi lại, tự do hội họp, tự do lập đảng, tự do
biểu tình, xã-hội dân-sự, v.v. Ông cám ơn Canada về tất cả những điều
Canada đã làm cho Việt-nam và ông mong là Canada có thể đóng một vai trò
tích-cực để đem lại công-lý và hòa-bình cho dân-tộc nhiều khổ đau là Việt-nam.
Trước khi kết thúc buổi họp, Luật-sư Lâm Chấn Thọ đã đưa ra bản
thảo của một nghị-quyết để Thượng-viện Canada có thể nghiên cứu. Thượng-nghị-sĩ
Ngô Thanh Hải đã mời mọi người đọc thật kỹ và đề nghị những điểm cần thêm thắt
hay sửa sang. Ông cho rằng cái tinh-thần của nghị-quyết và những nội-dung
cụ-thể là quan-trọng, còn ngôn ngữ thì văn-phòng Thượng-viện sẽ có ngôn ngữ
riêng của họ để cho đúng với cách hành văn của Thượng-viện. Theo
Thượng-nghị-sĩ, một khi bản nghị-quyết được Thượng-viện chấp thuận thì ông và
các ủy-ban liên-hệ sẽ phải cho người nghiên cứu thêm hoặc/và tổ-chức điều trần
để chi-tiết-hóa hành-động và chính-sách của Canada về các vấn-đề bàn cãi hôm
nay. (Tưởng cũng nên nhắc là Thượng-viện Hoa-kỳ hôm 15/7/2014 đã ra
nghị-quyết S.R. 412 buộc Trung-Cộng phải rút giàn khoan 981 sớm hơn 1 tháng và
đúng trước ngày phái-đoàn ở Mỹ sang Ottawa, ngày 4/12/2014, Hạ-viện Mỹ cũng ra
một nghị-quyết tương-tự, H.R. 712, kêu gọi mọi tranh chấp trong Biển Đông phải
được giải-quyết bằng con đường hòa-bình, theo công-pháp quốc-tế.)
Điều đáng nói ở đây là bàn tròn hôm 5/12 ở Thượng-viện Canada là
một trường-hợp điển-hình của “thực-thi dân-chủ” ở Canada. Những công-dân
Canada được mời đến bàn thảo một cách cởi mở và công-khai về những vấn-đề
liên-hệ đến an-ninh quốc-phòng Canada, về một vùng mà họ có nhiều hiểu biết, và
những chuyên-gia cũng được mời đến để đưa ra những nhận-định chuyên-môn của họ.
Đó là lý-do tại sao G.S. Nguyễn Ngọc Bích của Ủy-ban Lâm-thời VNCH đã
được mời đến thuyết-trình từ Mỹ (ông đã có bài phản-biện lập-trường chính-thức
của Trung-Cộng ở LHQ đưa ra ngày 8/6/2014) và Luật-sư Lâm Chấn Thọ được mời
tham-gia vào phần thảo-luận chuyên-đề như công-pháp quốc-tế, Hiến-chương LHQ,
các hiệp-định quốc-tế và Luật Biển v.v.