--
Kính
Chuyển
MG
CUỐI NĂM NHÌN LẠI BỨC TRANH
“ ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN TÀU ĐỎ “ CỦA ĐẢNG CSVN
MƯỜNG GIANG
Năm 111 trước Tây Lịch, người Hán xâm lăng và cưởng chiếm non sông Hồng-Lạc,
lúc đó có quốc hiệu là Nam Việt, bao gồm lãnh thổ của Âu Lạc và Giao Chỉ. Dân tộc
Việt bắt đầu sống trong một thời kỳ bị Tàu đô hộ cả ngàn năm, còn đất đai của
tiên tổ thì bị giặc cướp phanh thây thành chín mảnh. Ðó là Nam Hải va Hợp Phố
(Quảng Ðông), Thượng Ngô và Uất Lâm (Quảng Tây), Châu Nhai và Nam Nhĩ (Hải
Nam), Giao Chỉ (Bắc Việt), Cửu Chân (Thanh Hóa), Nhật Nam (Nghệ An và Hà Tĩnh).
‘ Quê hương nay đã mỏi
mòn,
Ngàn năm nô lệ, vẫn còn
còn đây .. ’ ’ ’
(Ca dao)
Từ đó
Dân tộc Việt sống trong một thời kỳ lầm than, nhục hận và đen tối dưới cùm gông
nô lệ, dưới đồng hóa xích xiềng cùng với sự áp bức dã man tàn độc của giặc Tàu
phương Bắc. Nhưng người Việt vốn là một dân tộc anh hùng tuyệt luân, phi thường
dũng liệt, can đãm bất khuất. Vì vậy suốt trong thời gian bị nô lệ, đã không ngừng
quật khởi chiến đấu, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi cẩm tú ngàn đời
của dòng giống Tiên Rồng, được tạo dựng từ
thời các Tổ Hùng dựng nước Văn Lang, cách đây gần 5000 năm lịch sử.
Trong
tình cảnh nước mất nhà tan, thương đau và tủi nhục, cuộc đấu tranh nhằm giải
phóng dân tộc thoái khỏi ách nô lệ của giặc Tàu, vẫn liên tục sôi sục trong tâm
khảm mọi người. Năm 40 sau Tây lịch, hai phụ nữ đầu tiên của nước Việt là Trưng Trắc và Trưng Nhị, đã thắp sáng lịch sữ bằng
ngọn lửa yêu nước, đánh đuổi tên thái thú tàn ác Tô Ðịnh chạy về Hán, dành lại
được một phần non sông cẩm tú của dân tộc, dù chỉ giữ được một thời gian ngắn. Cuộc
khởi nghĩa trên đã làm cho đồng bào vô cùng phấn khởi và càng thêm ngưỡng kính
Hai Bà tuy là phận nữ nhi nhưng đã dám đứng lên chống lại giặc thù của dân tộc,
trả thù nhà nợ nước. Thật là một tấm gương để cho con cháu ngàn đời soi
chung noi dấu. Ngày nay :
‘ Cột đồng Mã Viện tìm đấu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ, bóng nước gương ‘
(Thái Xuyên)
Nên đọc
lịch sử VN qua hằng ngàn năm trước tới thời cận sử không xa, con cháu ngày nay
chỉ thấy đẳm đầy trên những trang sách cũ-mới, toàn là máu lệ và nước mắt anh
hùng của tiền nhân, qua công cuộc bảo vệ và dành lại lãnh thổ cũng như nền tự
chủ độc lập của Ðại Việt. Còn gì đau đớn và tủi nhục cho bằng thân phận của
người dân mất nước, kể từ năm 43 sau TL , Mã Viện lập lại chế độ cai trị vô cùng
hà khắc, mục đích duy nhất cũng chỉ là muốn biến Giao Châu thành một quận huyện
của Tàu, đồng thời Hán hóa người Việt và bành trướng lãnh thổ xuống phương Nam.
Tuy cách
nay gần hai ngàn năm nhưng chính sách xâm lăng đồng hóa các dân tộc yếu kém
láng giềng của Hán Tộc vẫn không hề thay đổi, dù cho trong cuộc phong trần vinh
nhục, Tàu cũng đã nhiều lần bị các nước khác đô hộ, hạ nhục, thảm thê không có
bút mực nào diễn tả cho hết. Mã Viện dựng cột đồng với lời hăm dọa ‘ đồng trụ
chiết, Giao Chỉ diệt ‘ nhưng cột đồng thì mất tích, còn nổi căm hận nhớ
đến âm mưu diệt chũng của người Tàu đối với dân Việt thì muôn đời mãn kiếp
không bao giờ quên được. Ðó là lý do mà suốt ngàn năm bị áp bức bóc lột đến
cùng tận, dân Việt luôn luôn vùng dậy chống quân Tàu. Năm 248 Bà Triệu khởi binh
chống quân Ngô ở Cửu Chân (Thanh Hóa). Tiếp theo có Lý Nam Ðế, Triệu Quang Phục,
Mai Hắc Ðế, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ.. và cuối cùng là Ngô Vương Quyền vào năm
939 sau TL, chém đầu thái tử Hoàng Tháo trên sông Bạch Ðằng, đuổi đánh quân Nam
Hán chạy về Tàu, kết thúc 1000 Bắc thuộc, dành lại độc lập tự chủ
cho dân tộc Việt.
‘ Dồng trụ chí kim đài dĩ lục (cột đồng đến nay, rêu còn xanh ?)
Ðằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Ðằng tự xưa, máu vẫn
đỏ).
Và
từ đó cuộc chiến đấu trường kỳ của dân tộc Việt đối với dã tâm xâm lăng thống
trị của giặc Tàu phương Bắc, trở thành một bản chất quật cường trong tâm khảm của
mọi người. Ðó cũng là chủ nghĩa yêu nước, một tôn giáo đặc dị VN chỉ biết
tôn sùng những vị anh hùng liệt nữ tận trung báo quốc, mà họ coi
ngang với Trời Phật, thần Ðất.. như Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo, đã hai lần đại thắng
đế quốc Nguyên-Mông trong thế kỷ XIII khi xăm lăng Ðại Việt.
Nói
chung, trong khi chiến đấu để bảo vệ tổ quốc và nền độc lập tự do cho xứ sở,
các nhà lãnh đạo Ðại Việt lúc nào cũng cứng
rắn với giặc Tàu khi chiến đấu và mềm mỏng trong ngoại giao. Tổ tiên ta từ
buổi bình minh lịch sử, cũng chỉ nhờ vào chủ nghĩa anh hùng và chiến lược khôn
ngoan, mà đánh bại được tất cả các cuộc xâm lăng của Tống, Mông Cổ, Minh và Mản
Thanh. Còn việc triều cống giặc Tàu, sau những lần chiến thắng quân xâm lăng,
thực chất không phải vì nước ta sợ chúng, mà là tránh không để cho chiến tranh
tiếp diễn, gây thêm cảnh sanh linh đồ thán, để khổ cho muôn người.
Năm 1077
ba chục vạn quân Tống xâm lăng Ðại Việt. Ðại tướng Lý Thường Kiệt trong khi
ngăn giặc Tàu tại phòng tuyến Sông Cầu (Bắc Việt), đã sáng tác bốn câu thơ thần,
để cổ võ cho tình thần chiến sĩ nơi biên tái :
‘ Nam quốc sơn hà , Nam đế cư (Sông núi nước Nam vua Nam ở )
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Rành rành định phận ở sách trời)
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm (Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm)
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời).
Bài thơ
như một bản tuyên ngôn độc lập của nước Nam, đồng thời đanh thép cảnh cáo giặc
Tàu đừng bao giờ ỷ mạnh hiếp yếu, luôn nuôi dã tâm cưởng chiếm nước người,
không sớm thì muộn cũng có ngày bại vong. Tất cả là sự gắn bó mãnh liệt vào
mãnh đất quê hương, vào di sản dân tộc tuy đẳm đầy máu lệ nhưng đâu có thiếu chất
lãng mạng kiêu hùng :
‘ Ðoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái Bình nghi nổ lực
Vạn cổ thử giang san ‘
(Trần Quang Khải).
Vào cuối
năm Ðinh Mùi (1428), Bình Ðịnh Vương Lê Lợi sau 10 năm chiến đấu gian khổ, đã
đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi non sông đất Việt. Nguyễn Trãi thay ông viết ‘
Bình Ngô Ðại Cáo ‘ công bố trước quốc dân về công cuộc phục quốc đã thắng
lợi, nước nhà lại độc lập tự chủ như thuở nào. Ðồng thời bày tỏ lòng thương xót đối với đồng bào vô tội đã bị giặc Minh tàn
sát dã man, trong thời gian chúng tạm chiếm được nước ta :
‘ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ trăm ngàn kế
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi, dãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.. ’ ’ ’
Ba trăm
năm sau Mãn Thanh lại bắt đầu dòm ngó non sông Việt, qua cái cớ giúp Lê Chiêu
Thống dành lại ngôi vua. Vì vậy nữa đêm mùng năm tháng giêng Tết Kỹ Dậu (1789),
Ðại Ðế Quang Trung (Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc và chỉ trong một hồi trống đã đại
thắng giặc Thanh, bắt Sầm Nghi Ðống thắt cổ tự tử, khiến Tôn Sĩ Nghị phải ôm đầu
máu, trốn vào ống đồng chạy về Tàu
Như Lê
Thánh Tôn (1460-1497) vị anh quân tài giỏi của Ðại Việt vào cuối thế kỷ XV đã
nói ‘ Ta phải gìn giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một
tấc sông của dất núi ‘ Câu chuyện thần thoại về Phù Ðổng Thiên Vương cởi ngựa
sắt đánh đuổi giặc Ân xâm lăng nước ta vào thời Hùng Vương thứ VI, là một triết
lý lịch sử dựng và giữ nước của Ðại Việt, tuy là một nước nhỏ nhưng luôn chiến thắng
kẻ thù to lớn phương Bắc, được văn chương bình dân ca tụng đầy tự tin và ngạo
nghễ :
‘ Nực cười châu chấu đá xe
tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe nghiêng
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm ‘.
Tóm lại
bài học lịch sử Việt ngàn đời vẫn còn đó : Giặc Tàu chỉ có thể xâm lăng cưởng
chiếm đất đai của ta mỗi khi thế nước suy hèn, chia rẽ và nội loạn nên Hổ Quý
Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh đã dâng nạp cho kẻ thù phương Bắc nhiều đất đai
ở biên giới Hoa Việt.
Cuối đời
Trần vua quan hèn yếu, Hồ Quý Ly tiếm vị xưng vương vào năm 1401. Trần Khang tự
là Thiểm Bình, xưng là con cháu nhà Trần đến Yên Kinh xin Tàu đánh nước Nam đề
giựt lại ngai vàng cho mình. Nhà Minh lợi dụng cơ hội đó sang đánh chiếm nước
ta, đặt nên đô từ 1413-1428 mới chấm dứt vì bị Bình Ðinh Vương Lê Lợi đánh đuổi
chạy về Tàu. Thế mới biết, Nhà Hồ dù có trăm vạn quân thiện chiến và tinh
nhuệ nhưng vẫn thua giặc Minh vì mất lòng dân. Trong lúc Kháng Chiến
Quân Lam Sơn chỉ có vài chục vạn nhưng quân dân trên dưới một lòng, vì vậy đã
đánh đuổi được giặc Tàu xâm lăng ra khỏi bờ cõi, dành lại độc lập cho nước nhà.
Năm
1786, Duy Kỳ hay Duy Khiêm lên nối ngôi vua Hậu Lê tức là Mẫn Ðế niên hiệu
Chiêu Thống. Năm 1788 vì thù hận Tây Sơn và Chúa Trịnh, đồng thời muốn giựt lại
chiếc ngai vàng cho nhà Lê, nên Chiêu Thống chạy sang cầu viện Mãn Thanh sang
chiếm nước ta nhưng bị Ðại Ðế Quang Trung đuổi đánh phải chạy về Tàu vào năm
1789.
Và lịch
sử lại tái diễn tấn tuồng ‘ Rước voi Tàu về dầy mã Tổ Hồng Lạc ‘ từ tháng
giêng năm 1949, Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị trung ương lần thứ 6 để ‘ nổ
lực chuẩn bị sẳn sàng đón lấy dịp tốt, tuyệt đối không nên bỏ lỡ cơ hội
chiến lược từ Trung Cộng ‘.Cho nên không ngạc nhiên khi thấy Tàu Ðỏ là nước
đầu tiên công nhận Việt Cộng vào ngày 10-1-1950. Ðây cũng là thời gian HCM bí mật
sang Tàu chầu Mao Trạch Ðông cầu viện. Từ đó về sau Hồ chọn ngày 10-1 làm quốc
lễ và gọi đó là ngày ‘ thắng lợi ngoại giao ‘.Hàng ngàn cố vấn Tàu có mặt
đông đảo tại VN, trong số này có các tướng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Lã Quí
Ba.. giúp các đệ tử thân tín của Hồ từng hoạt động bên Tàu, nắm giữ các địa vị
then chốt trong đảng , ngày qua ngày cứ thế sản sinh bè phái thân Trung Cộng, khống
chế quyền lực cả nước tới nay, biến nước ta thành một quận huyện của Tàu như thời
Bắc thuộc.
Tháng
7-1954, ngay khi chữ ký trên văn bản ngưng bắn tại Genève chưa ráo mực, thì Hồ
Chí Minh đã nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam, để tron gói vơ vét và toàn quyền
trên ngai vàng máu lệ. Do ý đồ trên, Hồ đã gài lại một số lớn cán binh bộ đội nằm
vùng khắp lãnh thổ VNCH khi có lệnh tập kết. Ðể chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con đường chiến lược Trường Sơn
trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia . Về mặt biển, Hồ thành lập đường
559B giao cho Ðồng văn Cống chỉ huy.
Dĩ
nhiên muốn an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt hai tiền đồn của QLVNCH trấn
đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, đất đai thuộc lãnh thổ từ lâu đời của
dân tộc Ðại Việt, đã được tổ tiên bảo toàn từ thời Hậu Lê, Nhà Nguyễn.. nằm
trong Ðông Hải.
Một bí mật khác cũng đã được báo chí phổ biến cho biết “ vào tháng 4-1972
khi Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh cầu thân với Tàu đỏ, được Mao Trạch
Ðông đem công hàm bán đảo, do Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng ký năm 1958
làm bằng chứng “, để phản đối việc tàu Hoa Kỳ vi phạm lảnh hải quần đảo Hoàng
Sa của chúng (?).Còn Kissinger thì xảo quyệt hơn, khi viết hồi ký về chuyến đi
đó, đã không hề thắc mắc hay nhắc tới một chữ về việc Trung Cộng đòi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng-Trường Sa,
dù cả hai đều biết “ các quần đảo này của VNCH. Từ
đó, Nixon ra lệnh cho hạm đội 7 tại Thái Bình Dương phải ở xa hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa đúng 12 hải lý như Trung Cộng đã quyết định.
Ngày 11-1-1973 Trung Cộng công khai tuyên bố chủ quyền trên toàn thể các đảo
của VN trong biển Ðông. Ngày 26-12-1973 Bắc Kinh bắt đầu thương thuyết việc
khai thác dầu khí tại vịnh Bắc Việt với Ý Ðại Lợi. Tháng 1-1974 giặc Tàu
xua hải lục không quân chiếm Hoàng Sa và dù Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã trực
tiếp yêu cầu Bộ Quốc Phòng Mỹ giúp nhưng Mỹ lại ra lệnh Hạm Ðội 7 không can thiệp,
kể cả cấm vớt các chiến sĩ hải quân VNCH lâm nan trong cuộc hải chiến trên, dù
lúc đó hai bên vẫn còn là đồng
minh đồng đội.
Ngày thứ
bảy 17-2-1979 lúc 3 giờ 30 sáng, 600.000 quân Tàu tiền pháo hậu xung, ào ạt mở
cuộc xâm lăng đại quy mô vào VN, trên vùng biên giới từ Lai Châu tới Móng Cáy.
Thế là tình nghĩa vô sản quốc tế trong sáng giữa hai nước, đã trở thành hận thù
thiên cổ. Những địa danh Cao Bằng, Lạng Sơn, Ðồng Khê, Thất Khê.. lại đi vào những
trang Việt sử đẫm máu của VN chống xâm lăng Tàu. Cuộc chiến thật đẫm máu ngay từ
giờ phút đầu. Quân Tàu dùng chiến thuật cổ điển thí quân với tiền pháo hậu
xung, bằng các loại hỏa tiễn 122 ly và đại bác nòng dài 130 ly, với nhịp độ tác
xạ 1 giây, 1 trái đạn. Sau đó Hồng quân tràn qua biên giới như nước lũ từ trên
cao đổ xuống. Tuy nhiên khắp nơi, Trung Cộng đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt
của VN, một phần nhờ địa thế phòng thủ hiểm trở, phần khác là sự yểm trợ hùng hậu
của pháo binh các loại, gây cho giặc Tàu nhiều tổn thất về nhân mạng tại Lạng
Sơn và Cao Bằng.
Tóm lại
sau 16 ngày giao tranh đẫm máu, Trung Cộng cũng như Khmer đỏ, tàn phá tất cả
tài sản của dân chúng, bắn giết tận tuyệt người VN, san bằng các tỉnh biên giới,
mà suốt cuộc chến Ðông Dương lần II (1960-1975) gọi là vùng an toàn. Ðã có hằng
trăm ngàn vừa dân vừa lính của cả hai phía thương vong. Tại miền bắc, hằng triệu
dân chúng phải phân ly. Nhà cửa, vườn ruộng, của cải vật chất, đền đài, miếu
võ, nhà thờ, di tích tổ tiên bao đời để lại.. đều vì VC gây chiến tranh, mà tan
tành theo cát bụi.
Cuộc chiến
tưởng đâu đã chấm dứt, vì VC dấu nhẹm tin
tức từ ấy cho đến năm 2006, nhờ mạng lưới Internet của Bộ Quốc Phòng Trung Cộng
(Defense-China.com) và tác phẩm ‘ Dữ kiện bí mật của cuộc chiến tranh Trung-Việt
(Secret Records of Sino-Vietnamese War) ‘ của Jin Hui, Zhang Hui Sheng và
Zhang WEi Ming, cả thế giới biết được ‘ Bí Mật Lịch Sử về việc Tàu
chiếm Núi Ðất của VN, trong cuộc chiến biên giới lần hai (1984-1989) ‘.Theo
tài liệu dẫn chứng, năm 1984 Trung Cộng lại vin cớ CSVN thường pháo kích và tấn
công biên giới, nên bất thần tấn công cưởng chiếm Núi Ðất của VN tại tỉnh Hà
Giang (Thượng Du Bắc Phần), mở màn cho cuộc chiến Biên Giới Việt Hoa lần thứ
hai, kéo dài từ năm 1984-1989 mới chấm dứt, do Việt Cộng tự bỏ đất rút quân,
nhượng bán (?) lãnh thổ cho giặc Tàu.
CSVN, ngay từ lúc còn trong trứng nước vào những năm đầu thập niên 30 của
thế kỷ XX cho tới đại hội đảng bất thường lần thứ 6 vào đầu tháng 10-2012, từ Hồ
Chí Minh tới tập đoàn cầm quyền Trọng-Sang-Dũng và hầu hết các chóp bu trong bộ
chính trị và trung ương đảng “ đời đời biết ơn và luôn giữ sự thờ kính với Trung
Cộng “. Ðiều này cũng không có gì lạ vì hầu hết các cán bộ lớn nhỏ của cộng
đảng VN trước khi sang Liên Xô học hỏi kỹ thuật bán nước giết dân tại Ðông Phương
Hồng, đều đã trải qua thời gian huấn luyện quân sự và chính trị tại Hoa Lục.
Ngày nay nhờ sự bạch hoá của nhiều văn khố trên thế giới và nhất là sự tiết lộ
của Tàu đỏ, cho thấy dã tâm của Trung Cộng qua cái gọi là ‘ đồng chí XHCN
hay 4 tốt 16 chữ vàng ‘ thực chất chỉ là lợi dụng xương máu của người VN
qua bình phong ‘ sát cánh anh em chung ý thức hệ cộng sản ‘ , để bảo
vệ dùm biên giới phía nam của chúng. Năm 1968 sử gia Pháp Francois Joyaux đã dựa
vào tài liệu lưu trữ trong văn khố kết luận “ sự có mặt lần đầu tiên của Mao
tại hội nghị Geneve 1954, đã chứng tỏ sự quan tâm lớn lao tới tình hình
Ðông Dương thời đó của Trung Cộng. Còn Paul Mus một học giả Pháp
chuyên nghiên cứu về VN, vào năm 1965 đã viết ‘ Sở dĩ Mao nhượng bộ Pháp tại
hội nghị Geneve 1954, mục đích cũng chỉ muốn ngăn chận sự thống nhất của VN
cũng như không cho CSVN thống trị toàn thể bán đảo này ‘.
Ðây mới là lý do quan trọng nhất để Trung Cộng sẳn sàng hy sinh mọi thứ, chẳng
những dồn hết nhân vật lực hổ trợ cho Hà Nội, mà còn ra lệnh cho các đàn em Lào
và Cao Miên cho Hồ Chí Minh sử dụng hành lang của hai nước này tại biên giới để
Bắc Việt làm đường mòn. chuyển quân trang quân dụng vào xâm lăng VNCH. Tóm
lại đời đời Trung Cộng vẫn coi Việt Cộng như là một phương tiện không hơn không
kém để đạt cứu cánh của riêng mình.
Mãi tới cuối thập niên 70 , quyền sinh sát toàn dân và non nước Việt vẫn nằm
trong tay đảng CS, do một thiểu số ủy viên già nua thất học trong cái gọi là bộ
chính trị VC được bầu bán từ năm 1960 gồm Hồ chí Minh, Duẩn, Giáp, Ðồng, Nguyễn
Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan, Lê Ðức Tho, Trường Chinh.. trong số này Hoàng Văn
Hoan và Trường Chinh theo Tàu Ðỏ ra mặt. Sự tranh dành quyền lực đảng sau bức
màn đỏ rất quyết liệt sắt máu, giữa hai phe Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Nguyễn Chí Thanh
và Võ Nguyên Giáp, vì được bưng bít kỹ cho nên người ngoài ít ai biết được.
Sinh thời HCM luôn coi trọng Giáp hơn Duẩn nên dù Duẩn là bí thư thứ I của đảng
nhưng vẫn là phó cho Giáp trong quân ủy.
Lúc đầu Duẩn vì có lập trường đối đầu với Giáp nên ngã theo Trung Cộng. Trong
thời gian Khrushchev cầm quyền Liên Xô có chủ trương xét lại và chống đối Tàu đỏ,
đồng thời ra mặt o bế Giáp đầu đảng phe thân Nga lúc đó, với mục đích chia rẽ nội
bộ CSVN. Năm 1967 Khruchchev bị hạ bệ, Duẩn-Thọ vin vào thời cơ để tạo ra vụ án
xét lại, loại bỏ gần hết phe đảng của Giáp. Riêng Giáp nhờ có HCM che chở nên
được sống già vô tích sự tới ngày nay.
Từ sau tháng 5-1975 mặt nạ ‘ đánh Mỹ cứu nước ‘ của CSVN đã rớt, cũng là
lúc kết thúc trò đu dây giữa Nga-Tàu để hưởng lợi. Liên minh Ðông Dương cũng
không còn qua sự phá hoại của Trung Cộng, quan hệ Việt-Hoa rạn nứt từ những ân
oán cũ mới. Cuối cùng Duẩn bỏ Tàu theo Nga gây nên cuộc chiến long trời lở đất
tại biên giới Việt-Miên-Hoa từ năm 1978-1990.
Tháng 3-1985 Gorbachev làm tổng bí thư Liên Xô, phát động chính sách ‘ cởi mở
(glasnov) và tái cấu trúc (perestroika) ‘ để cứu vản nền kinh tế của Nga
đang trong cơn khủng hoảng vì phải cưu mang quá nhiều ngoại viện cho các nước
chư hầu trong đó có CSVN. Ðồng thời, Gorbachev còn nối lại liên hệ với kẻ thù
Hoa Kỳ và Trung Cộng. Trong bước đường cùng vì bị cả thế giới bỏ rơi ngoảng mặt,
tháng 8-1986 Hà Nội tuyên bố rút hết quân ra khỏi Kampuchia và muốn nối lại
quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Trường Chinh (tạm thay Lê Duẩn mới chết, làm
quyền tổng bí thư) còn gửi điện văn chúc mừng quốc khánh của Tàu đỏ.
Tóm lại sự suy sụp của đế quốc Liên Xô vào năm 1986 cộng thêm cái chết của Lê
Duẩn, đã đưa CSVN vào ngõ cụt về ý thực hệ, kinh tế gần như khánh tận, quân sự
bị sa lầy tại Kampuchia.. Nên để cứu đảng, cứu thân, bọn chóp bu tại bắc bộ phủ
mới được bầu trong đại hội đảng lần thứ VI (Linh, Hùng, Công, Mười, Kiệt..) qua
cố vấn của Chinh, Ðồng, Thọ “ quyết tâm phấn đấu để sớm được trở lại
làm đầy tớ cho Tàu “. Trong lúc đó, Trung Cộng vẫn công khai xua quân
chiếm thêm nhiều đất đai của ta tại biên giới và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa
của VN vào ngày 16-3-1988 trước sự phản ứng lấy lệ gần như đầu hàng giặc của
chóp bu CSVN.
Tháng 4-1989 Trung Cộng dùng xe tăng đại pháo tàn sát dã man sinh viên và dân
chúng biểu tình đòi dân chủ tại quảng trường Thiên An Môn (Bắc Kinh). Từ cuối
năm 1989-1990, Ðông Ðức, Ðông Âu và đế quốc Sô Viết tan rã, khối XHCN chỉ còn lại
Tàu đỏ, Việt Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba. Trước nổi chết gần kề, ngày 10-4-1990 bộ
chính trị cộng đảng VN họp khẩn để ‘ nhất trí quyết tâm bằng mọi giá
(kể cả bán nước, bán dân) được theo Tàu để bảo vệ XHCH. Và từ đó tới ngày nay
11-2012) , cái giá máu mà dân tộc VN phải đổ ra để CSVN trả nợ cho giặc Tàu là
một phần lảnh thổ gồm đất đai, biển, đảo và sự Hán hóa dân tộc Việt của Trung Cộng.
Ðổ Mười, Lê Khả Phiêu, Trần Ðức Lương, Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn
Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang.... đã và đang viết phần cuối trang
sử nô lệ giặc Tàu mà Hồ Chí Minh đã đề ra từ năm 1930. VN sẽ trở thành một quận
huyện của Trung Hoa như thời Bắc Thuộc. Tất cả đều là sự thật nhục nhã và đau
lòng.
Sau ngày 30-4-1975, hằng năm CSVN đều tổ chức ăn mừng ‘ chiến thắng Tết Mậu
Thân 1968 ‘ và ‘ đại thắng mùa xuân 1975 ‘. Nhưng tuyệt đối không nhắc tới một
chữ về những đau thương trầm thống mà giặc Tàu đã gây cho Nước Việt và Ðồng Bào
Việt trong cuộc chiến biên giới Hoa-Việt khởi sự từ ngày 17-2-1979 và kéo dài tới
đầu thập niên 1990 mới tạm dứt sau khi toàn bộ chóp bu VC đầu hàng Tàu đỏ.
Ðã vậy VC còn công khai khinh thường và hạ nhục cả nước, khi đảng cùng với
Trung Cộng rầm rộ tổ chức ăn mừng đã hoàn thành việc cắm mốc biên giói Việt-Trung
tại Ải Nam Quan vào ngày 24-2-2009. Biên bản do Nguyễn tấn Dũng ký vào cuối năm
2008 nhưng đã tuyệt tích vì bị đảng ém nhẹm nên người dân không hề hay biết một
điều gì.
Tháng 4-2008, VC giup Tàu đỏ tổ chức rầm rộ cuộc rước đuốc máu thế vận hội Bắc
Kinh tại Sài Gòn. Ngày 1-10-2012, VC hoan hĩ gửi điện văn và tổ chức ăn mừng
quốc khánh Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa của VN, mà giặc đã cưởng đoạt vào
tháng 1-1974..Toàn cảnh bức tranh “ đời đời nhớ ơn giặc Tàu “ được Hồ Chí Minh
và CSVN khắc cột ghi tâm, nên chuyện những người yêu nước chống ngoại xâm hiện
nay tại VN bị tàn sát, tù đày, thủ tiêu và khủng bố..cũng chẳng làm ai ngạc
nhiên và khiếp sợ, vì bộ mặt thặt của đảng từ trên xuống dưới đã bị nhận diện,
sau khi cái gọi là “ hội nghị tự phê của đảng làn thứ 6 “ khai mạc và kết thúc
vào tháng 10-2012, được các diễn đàn “ Dân Lam Báo, Quan Làm Báo, Báo Tổ Quốc,
Biển Đông “ phổ biến sâu rộng khắp hang cùng ngõ hẹp trên trái đất.
Ðại hội VI (1986-1991) ngoài thành tích đổi mới kinh tế theo định hướng XHCH để
tạo thêm đặc quyền đặc lợi cho cán bộ, bộ đội, công an và tư bản đỏ làm giàu
thêm nhờ than nhũng và ăn cắp của công. Tháng 7-1987 hội nghị trung ương đảng họp
và ban hành nghị quyết số 2 cấm ‘ QUÂN ÐỘI NHÂN DÂN VN KHÔNG ÐƯỢC ÐỤNG CHẠM
VỚI QUÂN TÀU ÐỎ ‘.Lệnh này được giữ kín mãi tới ngày 28-1-1990 báo Nhân Dân
mới đăng tải.
Tóm lại dù Tàu đỏ đã thẳng tay tàn sát cũng như tàn phá đất nước VN trong trận
chiến biên giới Việt-Hoa ngày 17-2-1979 và liên tiếp những năm sau đó. Tại Biển Ðông, TC cướp chiếm
Hoàng Sa và nhiều đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa của VN qua trận hải chiến
năm 1988. Nhưng mai mĩa thay khi Lê Ðức Anh được cử làm bộ trưởng quốc phòng tại
tại hội VI, đã đem ‘ quân đội nhân dân VC ‘ đầu hàng Tàu đỏ, mặc dù lúc đó sự giao hảo giữa hai nước vẫn chưa thông. Anh còn bắt
xuạt bản cuốn từ điển Việt-Hoa để bộ đội ‘ cu’ học .
Trong lúc Tàu đỏ gặp nhiều khó khăn quốc tế sau vụ tàn sát Thiên An Môn, các
chóp bu VC đã không biết vin vào thời cơ này để lấy lại thế quân bình ngoại
giao và uy tín của quốc gia. Trái lại bọn đầu lãnh già nua bảo thủ tại Bắc Bộ
Phủ lúc đó như Linh, Mười, Anh.. chỉ biết cúi đầu tuân phục giặc để
được chủ củ sớm cho làm đầy tớ trở lại. Vì thế vào ngày 29-8-1990 Linh và Mười,
kể cả Phạm Văn Ðồng, đã ngoan ngoản từ Hà Nội sang Thành Ðô để gặp Giang Trạch Dân
và Lý Bằng nhận lệnh của thiên triều.
Bổn cũ tiếp tục soạn lại qua các lần đại hội đảng kế tiếp với Manh, Lương, Khải,
Triết rồi Trong, Sang, Dũng..Tất cả đều theo đúng mẫu mã khuôn rập đã có sẳn từ
thời Hồ Chí Minh của mấy chục năm về trước ban truyền “ đời đời theo Tau và nhớ
ơn thiên triều “.Trung Cộng ngày nay còn hung dữ gấp trăm lần Quốc xã Ðức, Phát
xít Ý và Quân phiệt Nhật., vậy mà lúc nào cũng to mồm chưỏi Nhật.
Trong cơn sơn hà nguy biến, dân tộc sắp bị diệt vong, đồng bào cả nước và hải
ngoại ai nấy đều chung căm hận, quyết chờ cơ hội thuận tiện để đồng đứng dậy lật
đổ bọn ngụy quyền CSVN “ ác với dân nhưng hèn với giặc “, , để đánh đuổi Tàu
đỏ ra khỏi Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Ðông, Biên Giới.. như tổ tiên ta ngày trước
đã từng làm. Vì VN không phải là một nước nhỏ, dân Việt không phải là loại người
khiếp hèn. Nhõ hay hèn trước giặc Tàu phương Bắc, chỉ có đảng CSVN còn 80 triệu
người Việt luôn khẳng định sức mạnh của mình, sẽ không bao giờ để cho Tàu đỏ
hung hăng bá quyền nước lớn. Ngày đó không xa và chắc chắn VN sẽ dành lại những
phần đất của tổ tiên, bị VC dâng bán cho Tàu đỏ suốt mấy chục năm qua, khi chúng
bị hầu hết nhân loại quyết tâm tiêu diệt vì lòng tham lam hung bạo và vô nhân
tính, qua ảo vọng làm chủ Biển Đông và siêu cường số 1 thế giới
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Thang 12-2013
MƯỜNG GIANG