Tuesday, December 31, 2013

CAC CHUA VIET NAM TRAN NGAP SU CONG AN CONG SAN



TAT CA NGUOI VIET NAM DEU LA NAN NHAN CUA SU GIAN MANH TAN AC CUA CONG SAN.

CONG SAN LUON TIM CACH CHIA RE VA PHA TAN SU DOAN KET TON GIAO .

95 % CAC CHUA PG HIEN NAY DA BI CONG AN CS CHIEM DONG -
CS DUOI CAC NHA SU CHAN CHINH DI DE AN CUOP CHUA .

----- Forwarded Message -----
From: Vie^.t Si~ <>
To:
Sent: Sunday, December 29, 2013 12:46 AM
Subject: [Chinh Luan] PHOTOS: Cái Bạt Tai Thứ 333 và 334: BÁNH XE PGVNTN (Armed and Dangerous AN QUANG) ĐANG TRÊN ĐÀ TUỘT DỐC KHÔNG...PHANH - "BIỂU TÌNH TẠI GIA" NGHĨA ...NÀ NÀM THAO? (Thi sĩ Nguyễn Đình Hoài Việt

 

On Saturday, December 28, 2013 9:41 PM, Joseph Pham <j> wrote:

 
Cái Bt Tai Th 333: BÁNH XE PGVNTN ĐANG TRÊN ĐÀ TUT DC KHÔNG...PHANH.

image
image
image
imageimage
image
image
image
image
image
image
image
image



BÁNH XE  PGVNTN

 ĐANG TRÊN ĐÀ TUỘT DỐC KHÔNG...PHANH.



     Lịch sử GHPGVN chưa có thời kỳ nào mạt pháp như thời đại hiện nay.  Đa số các tăng sĩ PGVNTN đều bị tục hóa . Nếu chưa tin, Xin mời quý vi đưa mắt thoáng nhìn Khắp hoàn vũ,  quý vị sẽ thấy một sự thật phụ phàng đau xót cho hàng tăng sĩ GHPGVNTN đang xuống “ cấp “trầm trọng. Dịch xây chùa tràn lan khắp hang cùng ngõ hẻm. Các tăng ni Phật tử tìm đủ mọi cách  đua nhau  trùng tu , xây dựng chùa với hình thức bề ngoài hào nhóang, nhưng đời sống tu trì thiếu chiều sâu đạo đức  . Khách quan nhìn vào thì khó biết được sự thật , cứ tưởng là GHPGVNTN phát triển mạnh, nhưng thực không phải thế . Có mấy ai biết được mặt trái sinh hoạt của các bậc tăng sĩ  sau khi màn đêm phủ xuống trên lầu cao bảo tháp?   Có biết bao vị Hòa thượng có vợ con đùm đề, tình ái lăng nhăng mà vẫn giữ những chức phẩm cao trọng trong Giáo Hội PGVNTN trái với tôn chỉ của đạo pháp dành cho giới tăng sĩ . Họ  đã lợi dụng lòng tin của bá tánh để móc hầu bao của Phật tử xây chùa lớn, xây dinh thự giàu sang ,sống xa hoa hưởng lạc ngay sau Phật Đài mà Phật tử không hay biết. Và nếu có biết cũng không dám lên tiếng tố cáo, vì không muốn cởi áo cho người xem lưng .Thật đáng buồn.

Nói chung  nguyên nhân là do cơ cấu tổ chức của Phật Giáo rất lỏng lẻo . Do đó  Việt Cọng rất dễ dàng  trồng người vào  các chùa , các khuôn hội nằm chờ thời,  chờ cơ hội hoạt động thực thi kế hoạch của Hà Nội.  Ngoài các nghi thức thuần túy  tôn giáo, chùa chiền còn là nơi sinh hoạt như một chi bộ đảng  Cọng Sản. Điển hình là trước năm 1960 , khi Mỹ đi đêm với Việt Cọng muốn xóa sổ VNCH nên đã dựng đứng vô căn cứ chuyện kỳ thị Phật Giáo , tạo ra vụ treo cờ Phật giáo ngoài công lộ bị hạn chế theo luật định đã  kích động lòng tư ái tôn giáo của một thiểu số  Phật tử thiên Cọng bất bình phản ứng  biểu tình trước Đài Phát Thanh Huế .  Chưa đủ , các sư Cọng còn đem bàn thờ Phật xuống đường  làm trở ngại giao thông, gây bất ổn khắp nơi  dưới sự chỉ đạo của sư Cọng ThíchTrí Quang . Trong khi đó có một số chùa  là nơi  đặt bản doanh của bô tham mưu hội họp  công khai chứa chấp công an trọc đầu hoạt động  chống phá VNCH  mà cơ quan chính quyền thời bấy giờ đành phải làm ngơ vì không muốn bị hiểu lầm là đàn áp Phật Giáo. Ngoài ra GHPGVNTN còn lấy danh nghĩa Phật Giáo thành lập các đoàn thể như Thanh Niên Sinh Viên Cứu Quốc, gia đình Phật tử, Hướng đạo sinh Phật tử v.v. tự vũ trang đi lùng bắt Quân dân cán chính VNCH Miền Trung . Phóng hỏa đốt các làng Công Giáo di cư như Thanh Bồ, Đức Lợi, Thanh Bình v.v. tại thị xã Đà Nẵng. Giết hại hàng trăm người già, đàn bà, trẻ em mà các cao tăng Phật giáo  biết rất rõ nhưng vẫn làm ngơ. Chẳng những không ngăn cản mà trái lại còn bao che bọn Phật tử côn đồ giết hại dân lành một cách dã man.  Mãi tới nay  hơn nửa thế kỷ , trắng đen đã rõ , mà không ai có đủ can đảm lên tiếng nhận trách nhiệm , chưa nói gì có một lời xin lỗi, hoặc có một buổi lễ cầu siêu cho những oan hồn bị  thiêu sống do các thành phần Phật tử bất hảo  đi tiền phong lập  thành tích giết người dâng lên “ Bác và Đảng   “.  Phải chăng đây là một vết nhơ cho tổ chức PGVNTN mà muôn đời không thể tẩy xóa được .

  Phải thành thật mà nói, trong nội bộ GHPGVNTN hiện nay rối bời, Không ai phục ai.Các sư Cọng tranh dành ảnh hưởng với các tổ chức quần chúng Phật tử, gây bè phái, cướp giật  bất động sản chùa chiền như vừa xảy ra tại  California , Taxas, Ohio v.v..  các Sư trù trì tư do luyến ái, hãm hiếp và giết tình nhân sau khi thỏa mã thú tính như vụ tăng sĩ giết thiếu nữ tên Ngân  và chôn xác phi tang ngay trong sân chùa thật dã man hơn loài ác thú. Các sư trẻ thì như thế , còn các sư già  thì sao ? Thưa cũng giống nhau thôi,  nhưng có phần kín đáo hơn.  Ăn vụng biết chùi mép nên ít khi bị dư luận phát hiện .   Do đó cửa chùa lưôn luôn khép kín,  khó mà biết được những gì xảy ra sau  Phật đài khi màn đêm phủ xuống.  Nhưng thưa quý vị, tục ngữ có câu   “ cây kim trong bao vải cũng có ngày sẽ lòi ra” . Sự thật bị bưng bít lâu ngày rồi cũng sẽ có ngày bị phanh phui ra trước ánh sáng mặt trời. 

Tóm lại , Không thiếu gì ma tăng đóng kịch rất tài tình,  sáng thì gõ mõ tụng kinh, tối thì nhậu thịt gà rượu mạnh, phạm giới rất tự nhiên không có gì phải ngượng ngùng.

 Luôn tiện xin hầu quý độc giả một mẩu chuyện có thật .  Tôi có một người cháu tên X  vừa từ Việt Nam qua thăm California cho biết, trước khi đi du lịch , người cháu có đến thăm một người bạn học cũ rất thân,   học chung lớp chung trường. Hai người  thân thiết xưng hô nhau bằng “tao với mày “. Người bạn cũ ngày nay đã là “Hòa thượng “ trù trì một ngôi chùa lớn tại Saigon, mà khi găp nhau hai người vẫn xưng hô một cách thân mật như thời còn sinh viên..  Vì đến thăm đột ngột không hẹn trước,  vị Hòa thượng  đang bận  giảng thuyết không tiện tiếp khách, nên đã  ra dấu hiệu mời vi khách quý  vào tư thất sau chùa , xin cứtự nhiên nghỉ ngơi dùng bữa rồi hòa thượng sẽ găp sau. Người khách theo sự hướng dẫn của chú tiểu vào một căn phòng rất rộng, trang trí rất đẹp và hấp dẫn ,  trước sân có hồ bơi nước nóng, có máy đấm bóp, có đủ tiện nghi như một khách sạn  . Trong khi chờ đời Hòa thượng ,ngưởi khách tò mò mở tủ lạnh quan sát thì trời ơi, choáng váng  mặt mày trước những khay đĩa thịt heo quay , vịt quay , gà luộc , lòng heo, mắm, ruốc, rượu mạnh đủ  thứ không thiếu thứ gì mà Hòa thượng không có. Tu mà sướng như thê`thì ai mà chẳng muốn đi tu. Đó mới thực “ tu là cõi phúc. Tình là dây oan.”

       Kính thưa quý vị , Vì những nguyên do  có thật nói trên và vì sự tồn vong của Phật Giáo đồ,  chúng tôi khẩn thiết thỉnh cầu hàng Giáo phẩm Phật Giáo chính thống  có trách nhiệm xin hãy cảnh giác và có thái độ dứt khoát trước  âm mưu đen tối của Cọng Sản đang từng bước nhuộm đỏ GHPGVNTN  bằng chính sách xuất ngoại hàng ngàn tăng sinh vào bám trụ các chùa chiền tại Hải ngoại làm băng hoại tinh thần triết lý cao quý của Phật Giáo cội nguồn. Quý vị là những vị chân tu xin hãy can đảm nhận trách nhiệm trứơc lịch sử là trong những biến cố đẫm máu trước năm 1975, không nhiều thì ít , GHPGVN cũng đã trực tiếp hay gián tiếp nhúng tay vào máu bức tử VNCH qua các hành động thiên cọng của các vị sư sãi trong tổ chức PGVNTN gây nên. Quý vị không thể bưng bít sự thật và lừa dối đồng bào Phật Tử mãi mãi được ,  mà hãy tự mổ xẻ vết thương thời cuộc và trả lại công bằng cho những Quân Dân Cán Chính Vị Quốc Vong Thân. Có được như vậy, hy vọng vết thương đang rỉ máu sẽ được mau chóng chữa lành và tinh thần đoàn kết các tôn giáo bạn sẽ không còn khoảng cáck xa nhau.

   Nếu quý vị không sớm thức tỉnh còn mãi mê mù quáng “ rước Cọng cắn gà nhà “ gây tang tóc cho dân tộc Việt Nam, thì bánh xe GHPGVNTN sẽ tuột dốc, khó tránh khỏi những nghiệp chướng do  quả báo tư mình gây nên .



NGUYỄN ĐÌNH HOÀI VIỆT.

Cái Bt Tai Th 334: Biu Tình Ti Gia

image
image


"BIỂU TÌNH TẠI GIA" NGHĨA ...NÀ NÀM THAO?

Thưa nghĩa là thực thi tứ khoái tại trong nhà để chống Cọng . Không đem bàn thờ Phật ra ngoài đường như chống Mỹ cứu nước trước đây. 


      Khách quan mà nhận xét,  trước năm 1975 là thời kỳ Phật Giáo cực thịnh, tư do hành đạo , được xây dưng trên 3000 ngôi chùa.  Các tăng sinh được xuất ngoại tu học để về xây dựng Phật Giáo, vì đa số các   sãi ngày xưa  quá lạc hậu và thiếu kiến thức . Nhìn chung thì đồng bào cả nước VNCH từ thành thị đến thôn quê đều được sống Tự Do, bình quyền, Bình đẳng sống trong an bình , thịnh vượng , đó là sự thực.  Nhưng oái oăn thay, đa số các tăng sĩ già của  GHPGVNTN lại thiên Cọng ,  công khai xách động quần chúng nhẹ dạ  đem Phật xuống đường làm cản trở giao thông  để chống Mỹ cứu nước CHXHCNVN   .

       Sau năm 1975 , Phật Giáo trong nước đang thực sự bị  Cọng Sản đàn áp, Pháp nạn đang xảy ra thì các tăng sĩ cao cấp GHPGVNTN  lại lớn tiếng kêu gọi phật tử , tăng sĩ  hãy biểu tình tại gia,  tỏ thái hèn nhát không dám ra mặt chống đối Cọng Sản đàn áp tôn giáo .  Thật đáng buồn cho dân tộc Việt Nam.



         Chúng ta hãy nhìn  qua nước láng giềng  , quý bạn  sẽ thấy  tinh thần yêu nước của các tăng đoàn  sư sãi của xứ chùa Tháp CAMBODIA lên rất cao.  Chính họ đang đồng hành với toàn dân  đang    ồ ạt xuống đường chống Cong Sản độc tài,  làm chấn động cả thế giới . Qua các hình ảnh sư sãi trẻ và toàn dân không sợ chết, biểu tình chống tà quyền Cọng Sản độc tài khát máu đang  diễn ra  tại Cambochia, các bạn trẻ và nhất là quý thầy quý ni sư có cảm thấy mình hèn nhát , xấu hổ không ? Xin hãy thẳng thắn trả lời  .

 Chớ đừng vì tứ ái tôn giáo mà mù quáng trước hiểm họa mất nước đang gần kề .

 Thanks.



         NGUYENDINHHOAIVIET


Những tấm chân tình ngày cuối năm


Những tấm chân tình ngày cuối năm

www.ducme.tv -VNTQ- Nhà báo Phạm Chí Dũng: Sẽ có làn sóng thoái đảng trong thời gian tới? 07.12.2013


Tâm ạ, hãy tạm quên đi những gương mặt vô cảm, quên đi những nụ cười lạnh lùng, tàn ác của những bộ đồng phục màu xanh trong tòa án Phú Yên. Hãy biết rằng, bên cạnh những tâm hồn rừng rú ấy vẫn còn nhiều, nhiều lắm những tấm chân tình từ xa, xa lắm nhưng cũng gần, gần quá bên em. Hãy dìu dắt nhau bằng những tấm chân tình này. Và từ những vòng tay ấm đó, sẽ cho chúng ta niềm hy vọng chan hòa vào một ngày trên đất nước Việt Nam sẽ không còn những nhà tù giam giữ những con tim biết yêu thương...

Ca Dao (Danlambao) - Một năm buồn, một năm vui, một năm hạnh phúc hay một năm đầy những oan khiên, rồi cũng sẽ khép lại, mọi người lại tiếp tục ước mơ, tiếp tục hy vọng, tiếp tục chúc cho nhau những điều mong đợi ở 365 ngày trước mặt.

Trong những ngày cuối năm cuống cuồng vội vã ấy, người ta quên đi một người tù vừa mới nhận bản án nghiệt ngã 15 năm, người ta không để ý đến một người vợ lã chã dòng nước mắt thống thiết gọi tên chồng, người ta không biết ở mãnh đất Phú Yên có hai đứa con trai tủi thân lặng lẽ dìu Mẹ đang oằn người trong nỗi đau, bỏ lại sau lưng người Cha mắt nhìn theo đau đáu một vòng ôm.

Trở về căn nhà dột nát, người con trai trưởng gói trọn những dòng nước mắt của Mẹ, những uất ức của em vào những con chữ trong lá thư gửi cho Cha. Lá thư sẽ không bao giờ đến được tay người nhận. Nhưng hàng chục ngàn người khác đã thay người Cha đọc lá thư này.

"Thư cho Ba trong tù" được đăng trên Dân Làm Báo ngày 27/12/2013. Ngay ngày đầu tiên đã có 17 comments, 3 ngày sau đã có 35 comments. Nhưng, con số comments không phải là chỉ số yêu thương mà nội dung của những comments mới là những thông điệp của tình người.

Hương Giang: “Buồn muốn khóc”.

Thạch Nguyên vò võ một tâm tình: “Đọc thơ em, lòng tôi se thắt, một vài giọt lăn, thương em, thương Mẹ, thương Ba, thương những gương hy sinh cũng như thương cả chính mình...”

Phạm Đức nhắn nhủ “Cháu và Gia đình không đơn độc, những người yêu công lý và cương quyết tiêu diệt ác thú Cộng sản luôn luôn bên cháu và gia đình cháu”.

Và kêu gọi: “Tôi mong tất cả mọi người hãy quyên góp giúp đỡ cho gia đình bác Ngô Hào trong khả năng theo tinh thần “Bầu ơi thương lấy Bí cùng”.

Chu Mot phẩn uất “Một bản án nghiệt ngã, bất công, một người tù vô tội, một gia đình lý tán, một hoàn cảnh não lòng...”

Người đưa tin hy vọng “Bác Ngô Hào sẽ sớm đoàn tụ với gia đình”.

Bà Năm Trầu: “không ngăn được dòng nước mắt”.

Và chắc chắn không phải chỉ có Bà Năm Trầu mà nhiều người đàn ông khác, trái tim tưởng chừng khô khan cũng đã phải vội dấu đi những dòng nước mắt chảy vội bởi những dòng chữ từ con tim của một người con hiếu thảo.

Theo Giáo sư Phạm Minh Hoàng hiện đang còn bị quản chế ở Sài Gòn, Ngô Minh Tâm là một học trò giỏi và là một người con hiếu thảo. Những ngày Ba bị bắt và ra tòa sơ thẩm, Tâm đã liên lạc với Giáo Sư Phạm Minh Hoàng, người đã dạy trường Tâm đang học để hỏi thăm kinh nghiệm về nhà tù CSVN, để chia sẻ với thầy Hoàng nỗi đau và sự bất lực của mình trước bản án bất công của chế độ. Tâm đang học cuối năm thứ ba Đại học Bách khoa, ngày đi học, đêm dạy thêm và làm bất cứ việc gì có thể với hy vọng nhỏ nhoi là mãnh bằng đại học sẽ là cứu cánh cho cả gia đình. Mảnh bằng Đại học ở Việt Nam dù nhẹ như mây trời, vẫn là niềm mong ước của bất cứ bậc Cha Mẹ nào.

Lá thư cho Ba ấy không chỉ dừng lại trên khoảng không gian của Dân Làm Báo, nó được chuyển đến các diễn đàn và ở đó, nó cũng đã gợi lên những giọt lăn tăn. Dù người ta chưa từng nghe tên ông Ngô Hào, dù người ta không biết Ngô Minh Tâm là ai. Nhưng người ta đã đau cùng với Tâm một nỗi đau. Những người không quen ấy muốn được san sẻ cùng Tâm nỗi oan nghiệt của một kiếp người, kiếp làm người trong một đất nước Việt Nam bất hạnh.

Và, chỉ có ở đây, chỉ có lúc này người ta mới thấy được tình người nở rộ, ngay cả trong những giây phút tất bật của những ngày cuối năm. Những email được chuyển đi vội vã, và cũng rất nhanh, tấp nập những email phản hồi, nhắn hỏi: 

- Xin cho địa chỉ gia đình cháu Tâm để tôi gửi chút quà biếu.
- Gửi về đây có an toàn không? có nhận được không?
- Cho tôi địa chỉ hội Thương Phế Binh để tôi chuyển thư cho họ.
- Bên tôi sẽ tổ chức gây quỹ!...
- Tôi muốn giúp đỡ, phải làm sao, đồng đội của tôi mà!
- Ông Hào không phải đồng đội của tôi, tôi không đi lính, nhưng đồng hương. Tội quá!
- Bà vợ ông Hào bệnh nặng quá, gửi chút tiền cho bả trị bệnh, trong thư thằng nhỏ nói thuốc gửi, tháng có, tháng không...

Và tôi cũng khóc, khóc vì những giọt chân tình của người- người gửi cho một người không quen. Niềm tin về con người tưởng đã ngủ yên sau những trăn trở về lòng người nay bỗng thức giấc. Như một ngôi vườn được tưới mát sau một trận mưa rào, tình người trở dậy, rực rỡ trong nắng mai. Vẫn còn đó những trái tim, vẫn còn đó những chân tình của con-người dành cho con-người, không mất mát, nó chỉ cần được đánh thức đúng lúc, đúng nơi.

Tâm ạ, hãy tạm quên đi những gương mặt vô cảm, quên đi những nụ cười lạnh lùng, tàn ác của những bộ đồng phục màu xanh trong tòa án Phú Yên. Hãy biết rằng, bên cạnh những tâm hồn rừng rú ấy vẫn còn nhiều, nhiều lắm những tấm chân tình từ xa, xa lắm nhưng cũng gần, gần quá bên em. Hãy dìu dắt nhau bằng những tấm chân tình này. Và từ những vòng tay ấm đó, sẽ cho chúng ta niềm hy vọng chan hòa vào một ngày trên đất nước Việt Nam sẽ không còn những nhà tù giam giữ những con tim biết yêu thương.

30/12/2013




Nổ banh chành...



CUỐI NĂM NHÌN LẠI BỨC TRANH “ ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN TÀU ĐỎ “ CỦA ĐẢNG CSVN MƯỜNG GIANG


--
Kính Chuyển
MG

CUỐI NĂM NHÌN LẠI BỨC TRANH 
“ ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN TÀU ĐỎ “ CỦA ĐẢNG CSVN
MƯỜNG GIANG


            Năm 111 trước Tây Lịch, người Hán xâm lăng và cưởng chiếm non sông Hồng-Lạc, lúc đó có quốc hiệu là Nam Việt, bao gồm lãnh thổ của Âu Lạc và Giao Chỉ. Dân tộc Việt bắt đầu sống trong một thời kỳ bị Tàu đô hộ cả ngàn năm, còn đất đai của tiên tổ thì bị giặc cướp phanh thây thành chín mảnh. Ðó là Nam Hải va Hợp Phố (Quảng Ðông), Thượng Ngô và Uất Lâm (Quảng Tây), Châu Nhai và Nam Nhĩ (Hải Nam), Giao Chỉ (Bắc Việt), Cửu Chân (Thanh Hóa), Nhật Nam (Nghệ An và Hà Tĩnh).

‘ Quê hương nay đã mỏi mòn,
Ngàn năm nô lệ, vẫn còn còn đây .. ’ ’ ’
(Ca dao)

            Từ đó Dân tộc Việt sống trong một thời kỳ lầm than, nhục hận và đen tối dưới cùm gông nô lệ, dưới đồng hóa xích xiềng cùng với sự áp bức dã man tàn độc của giặc Tàu phương Bắc. Nhưng người Việt vốn là một dân tộc anh hùng tuyệt luân, phi thường dũng liệt, can đãm bất khuất. Vì vậy suốt trong thời gian bị nô lệ, đã không ngừng quật khởi chiến đấu, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi cẩm tú ngàn đời của dòng giống Tiên Rồng, được tạo dựng từ thời các Tổ Hùng dựng nước Văn Lang, cách đây gần 5000 năm lịch sử.

            Trong tình cảnh nước mất nhà tan, thương đau và tủi nhục, cuộc đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc thoái khỏi ách nô lệ của giặc Tàu, vẫn liên tục sôi sục trong tâm khảm mọi người. Năm 40 sau Tây lịch, hai phụ nữ đầu tiên của nước Việt là Trưng Trắc và Trưng Nhị, đã thắp sáng lịch sữ bằng ngọn lửa yêu nước, đánh đuổi tên thái thú tàn ác Tô Ðịnh chạy về Hán, dành lại được một phần non sông cẩm tú của dân tộc, dù chỉ giữ được một thời gian ngắn. Cuộc khởi nghĩa trên đã làm cho đồng bào vô cùng phấn khởi và càng thêm ngưỡng kính Hai Bà tuy là phận nữ nhi nhưng đã dám đứng lên chống lại giặc thù của dân tộc, trả thù nhà nợ nước. Thật là một tấm gương để cho con cháu ngàn đời soi chung noi dấu. Ngày nay :
‘ Cột đồng Mã Viện tìm đấu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ, bóng nước gương
(Thái Xuyên)

            Nên đọc lịch sử VN qua hằng ngàn năm trước tới thời cận sử không xa, con cháu ngày nay chỉ thấy đẳm đầy trên những trang sách cũ-mới, toàn là máu lệ và nước mắt anh hùng của tiền nhân, qua công cuộc bảo vệ và dành lại lãnh thổ cũng như nền tự chủ độc lập của Ðại Việt. Còn gì đau đớn và tủi nhục cho bằng thân phận của người dân mất nước, kể từ năm 43 sau TL , Mã Viện lập lại chế độ cai trị vô cùng hà khắc, mục đích duy nhất cũng chỉ là muốn biến Giao Châu thành một quận huyện của Tàu, đồng thời Hán hóa người Việt và bành trướng lãnh thổ xuống phương Nam.

            Tuy cách nay gần hai ngàn năm nhưng chính sách xâm lăng đồng hóa các dân tộc yếu kém láng giềng của Hán Tộc vẫn không hề thay đổi, dù cho trong cuộc phong trần vinh nhục, Tàu cũng đã nhiều lần bị các nước khác đô hộ, hạ nhục, thảm thê không có bút mực nào diễn tả cho hết. Mã Viện dựng cột đồng với lời hăm dọa ‘ đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệtnhưng cột đồng thì mất tích, còn nổi căm hận nhớ đến âm mưu diệt chũng của người Tàu đối với dân Việt thì muôn đời mãn kiếp không bao giờ quên được. Ðó là lý do mà suốt ngàn năm bị áp bức bóc lột đến cùng tận, dân Việt luôn luôn vùng dậy chống quân Tàu. Năm 248 Bà Triệu khởi binh chống quân Ngô ở Cửu Chân (Thanh Hóa). Tiếp theo có Lý Nam Ðế, Triệu Quang Phục, Mai Hắc Ðế, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ.. và cuối cùng là Ngô Vương Quyền vào năm 939 sau TL, chém đầu thái tử Hoàng Tháo trên sông Bạch Ðằng, đuổi đánh quân Nam Hán chạy về Tàu, kết thúc 1000 Bắc thuộc, dành lại độc lập tự chủ cho dân tộc Việt.

‘ Dồng trụ chí kim đài dĩ lục (cột đồng đến nay, rêu còn xanh ?)
Ðằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Ðằng tự xưa, máu vẫn đỏ).

          Và từ đó cuộc chiến đấu trường kỳ của dân tộc Việt đối với dã tâm xâm lăng thống trị của giặc Tàu phương Bắc, trở thành một bản chất quật cường trong tâm khảm của mọi người. Ðó cũng là chủ nghĩa yêu nước, một tôn giáo đặc dị VN chỉ biết tôn sùng những vị anh hùng liệt nữ tận trung báo quốc, mà họ coi ngang với Trời Phật, thần Ðất.. như Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo, đã hai lần đại thắng đế quốc Nguyên-Mông trong thế kỷ XIII khi xăm lăng Ðại Việt.

          Nói chung, trong khi chiến đấu để bảo vệ tổ quốc và nền độc lập tự do cho xứ sở, các nhà lãnh đạo Ðại Việt lúc nào cũng cứng rắn với giặc Tàu khi chiến đấu và mềm mỏng trong ngoại giao. Tổ tiên ta từ buổi bình minh lịch sử, cũng chỉ nhờ vào chủ nghĩa anh hùng và chiến lược khôn ngoan, mà đánh bại được tất cả các cuộc xâm lăng của Tống, Mông Cổ, Minh và Mản Thanh. Còn việc triều cống giặc Tàu, sau những lần chiến thắng quân xâm lăng, thực chất không phải vì nước ta sợ chúng, mà là tránh không để cho chiến tranh tiếp diễn, gây thêm cảnh sanh linh đồ thán, để khổ cho muôn người.

            Năm 1077 ba chục vạn quân Tống xâm lăng Ðại Việt. Ðại tướng Lý Thường Kiệt trong khi ngăn giặc Tàu tại phòng tuyến Sông Cầu (Bắc Việt), đã sáng tác bốn câu thơ thần, để cổ võ cho tình thần chiến sĩ nơi biên tái :

‘ Nam quốc sơn hà , Nam đế cư (Sông núi nước Nam vua Nam ở )
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Rành rành định phận ở sách trời)
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm (Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm)
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời).

            Bài thơ như một bản tuyên ngôn độc lập của nước Nam, đồng thời đanh thép cảnh cáo giặc Tàu đừng bao giờ ỷ mạnh hiếp yếu, luôn nuôi dã tâm cưởng chiếm nước người, không sớm thì muộn cũng có ngày bại vong. Tất cả là sự gắn bó mãnh liệt vào mãnh đất quê hương, vào di sản dân tộc tuy đẳm đầy máu lệ nhưng đâu có thiếu chất lãng mạng kiêu hùng :

‘ Ðoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái Bình nghi nổ lực
Vạn cổ thử giang san ‘
(Trần Quang Khải).

            Vào cuối năm Ðinh Mùi (1428), Bình Ðịnh Vương Lê Lợi sau 10 năm chiến đấu gian khổ, đã đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi non sông đất Việt. Nguyễn Trãi thay ông viết ‘ Bình Ngô Ðại Cáo ‘ công bố trước quốc dân về công cuộc phục quốc đã thắng lợi, nước nhà lại độc lập tự chủ như thuở nào. Ðồng thời bày t lòng thương xót đối với đồng bào vô tội đã bị giặc Minh tàn sát dã man, trong thời gian chúng tạm chiếm được nước ta :

‘ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ trăm ngàn kế
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi, dãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.. ’ ’ ’

            Ba trăm năm sau Mãn Thanh lại bắt đầu dòm ngó non sông Việt, qua cái cớ giúp Lê Chiêu Thống dành lại ngôi vua. Vì vậy nữa đêm mùng năm tháng giêng Tết Kỹ Dậu (1789), Ðại Ðế Quang Trung (Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc và chỉ trong một hồi trống đã đại thắng giặc Thanh, bắt Sầm Nghi Ðống thắt cổ tự tử, khiến Tôn Sĩ Nghị phải ôm đầu máu, trốn vào ống đồng chạy về Tàu

            Như Lê Thánh Tôn (1460-1497) vị anh quân tài giỏi của Ðại Việt vào cuối thế kỷ XV đã nói ‘ Ta phải gìn giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của dất núi ‘ Câu chuyện thần thoại về Phù Ðổng Thiên Vương cởi ngựa sắt đánh đuổi giặc Ân xâm lăng nước ta vào thời Hùng Vương thứ VI, là một triết lý lịch sử dựng và giữ nước của Ðại Việt, tuy là một nước nhỏ nhưng luôn chiến thắng kẻ thù to lớn phương Bắc, được văn chương bình dân ca tụng đầy tự tin và ngạo nghễ :

‘ Nực cười châu chấu đá xe
tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe nghiêng
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm ‘.

            Tóm lại bài học lịch sử Việt ngàn đời vẫn còn đó : Giặc Tàu chỉ có thể xâm lăng cưởng chiếm đất đai của ta mỗi khi thế nước suy hèn, chia rẽ và nội loạn nên Hổ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh đã dâng nạp cho kẻ thù phương Bắc nhiều đất đai ở biên giới Hoa Việt.

            Cuối đời Trần vua quan hèn yếu, Hồ Quý Ly tiếm vị xưng vương vào năm 1401. Trần Khang tự là Thiểm Bình, xưng là con cháu nhà Trần đến Yên Kinh xin Tàu đánh nước Nam đề giựt lại ngai vàng cho mình. Nhà Minh lợi dụng cơ hội đó sang đánh chiếm nước ta, đặt nên đô từ 1413-1428 mới chấm dứt vì bị Bình Ðinh Vương Lê Lợi đánh đuổi chạy về Tàu. Thế mới biết, Nhà Hồ dù có trăm vạn quân thiện chiến và tinh nhuệ nhưng vẫn thua giặc Minh vì mất lòng dân. Trong lúc Kháng Chiến Quân Lam Sơn chỉ có vài chục vạn nhưng quân dân trên dưới một lòng, vì vậy đã đánh đuổi được giặc Tàu xâm lăng ra khỏi bờ cõi, dành lại độc lập cho nước nhà.

            Năm 1786, Duy Kỳ hay Duy Khiêm lên nối ngôi vua Hậu Lê tức là Mẫn Ðế niên hiệu Chiêu Thống. Năm 1788 vì thù hận Tây Sơn và Chúa Trịnh, đồng thời muốn giựt lại chiếc ngai vàng cho nhà Lê, nên Chiêu Thống chạy sang cầu viện Mãn Thanh sang chiếm nước ta nhưng bị Ðại Ðế Quang Trung đuổi đánh phải chạy về Tàu vào năm 1789.

            Và lịch sử lại tái diễn tấn tuồng ‘ Rước voi Tàu về dầy mã Tổ Hồng Lạc ‘ từ tháng giêng năm 1949, Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị trung ương lần thứ 6 để ‘ nổ lực chuẩn bị sẳn sàng đón lấy dịp tốt, tuyệt đối không nên bỏ lỡ cơ hội chiến lược từ Trung Cộng ‘.Cho nên không ngạc nhiên khi thấy Tàu Ðỏ là nước đầu tiên công nhận Việt Cộng vào ngày 10-1-1950. Ðây cũng là thời gian HCM bí mật sang Tàu chầu Mao Trạch Ðông cầu viện. Từ đó về sau Hồ chọn ngày 10-1 làm quốc lễ và gọi đó là ngày ‘ thắng lợi ngoại giao ‘.Hàng ngàn cố vấn Tàu có mặt đông đảo tại VN, trong số này có các tướng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Lã Quí Ba.. giúp các đệ tử thân tín của Hồ từng hoạt động bên Tàu, nắm giữ các địa vị then chốt trong đảng , ngày qua ngày cứ thế sản sinh bè phái thân Trung Cộng, khống chế quyền lực cả nước tới nay, biến nước ta thành một quận huyện của Tàu như thời Bắc thuộc.

            Tháng 7-1954, ngay khi chữ ký trên văn bản ngưng bắn tại Genève chưa ráo mực, thì Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam, để tron gói vơ vét và toàn quyền trên ngai vàng máu lệ. Do ý đồ trên, Hồ đã gài lại một số lớn cán binh bộ đội nằm vùng khắp lãnh thổ VNCH khi có lệnh tập kết. Ð chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con đường chiến lược Trường Sơn trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia . Về mặt biển, Hồ thành lập đường 559B giao cho Ðồng văn Cống chỉ huy. Dĩ nhiên muốn an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt hai tiền đồn của QLVNCH trấn đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, đất đai thuộc lãnh thổ từ lâu đời của dân tộc Ðại Việt, đã được tổ tiên bảo toàn từ thời Hậu Lê, Nhà Nguyễn.. nằm trong Ðông Hải.

            Một bí mật khác cũng đã được báo chí phổ biến cho biết “ vào tháng 4-1972 khi Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh cầu thân với Tàu đỏ, được Mao Trạch Ðông đem công hàm bán đảo, do Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng ký năm 1958 làm bằng chứng “, để phản đối việc tàu Hoa Kỳ vi phạm lảnh hải quần đảo Hoàng Sa của chúng (?).Còn Kissinger thì xảo quyệt hơn, khi viết hồi ký về chuyến đi đó, đã không hề thắc mắc hay nhắc tới một chữ về việc Trung Cộng đòi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng-Trường Sa, dù cả hai đều biếtcác quần đảo này của VNCH. Từ đó, Nixon ra lệnh cho hạm đội 7 tại Thái Bình Dương phải ở xa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đúng 12 hải lý như Trung Cộng đã quyết định.

            Ngày 11-1-1973 Trung Cộng công khai tuyên bố chủ quyền trên toàn thể các đảo của VN trong biển Ðông. Ngày 26-12-1973 Bắc Kinh bắt đầu thương thuyết việc khai thác dầu khí tại vịnh Bắc Việt với Ý Ðại Lợi. Tháng 1-1974 giặc Tàu xua hải lục không quân chiếm Hoàng Sa và dù Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã trực tiếp yêu cầu Bộ Quốc Phòng Mỹ giúp nhưng Mỹ lại ra lệnh Hạm Ðội 7 không can thiệp, kể cả cấm vớt các chiến sĩ hải quân VNCH lâm nan trong cuộc hải chiến trên, dù lúc đó hai bên vẫn còn là đồng minh đồng đội.
           
            Ngày thứ bảy 17-2-1979 lúc 3 giờ 30 sáng, 600.000 quân Tàu tiền pháo hậu xung, ào ạt mở cuộc xâm lăng đại quy mô vào VN, trên vùng biên giới từ Lai Châu tới Móng Cáy. Thế là tình nghĩa vô sản quốc tế trong sáng giữa hai nước, đã trở thành hận thù thiên cổ. Những địa danh Cao Bằng, Lạng Sơn, Ðồng Khê, Thất Khê.. lại đi vào những trang Việt sử đẫm máu của VN chống xâm lăng Tàu. Cuộc chiến thật đẫm máu ngay từ giờ phút đầu. Quân Tàu dùng chiến thuật cổ điển thí quân với tiền pháo hậu xung, bằng các loại hỏa tiễn 122 ly và đại bác nòng dài 130 ly, với nhịp độ tác xạ 1 giây, 1 trái đạn. Sau đó Hồng quân tràn qua biên giới như nước lũ từ trên cao đổ xuống. Tuy nhiên khắp nơi, Trung Cộng đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của VN, một phần nhờ địa thế phòng thủ hiểm trở, phần khác là sự yểm trợ hùng hậu của pháo binh các loại, gây cho giặc Tàu nhiều tổn thất về nhân mạng tại Lạng Sơn và Cao Bằng.

            Tóm lại sau 16 ngày giao tranh đẫm máu, Trung Cộng cũng như Khmer đỏ, tàn phá tất cả tài sản của dân chúng, bắn giết tận tuyệt người VN, san bằng các tỉnh biên giới, mà suốt cuộc chến Ðông Dương lần II (1960-1975) gọi là vùng an toàn. Ðã có hằng trăm ngàn vừa dân vừa lính của cả hai phía thương vong. Tại miền bắc, hằng triệu dân chúng phải phân ly. Nhà cửa, vườn ruộng, của cải vật chất, đền đài, miếu võ, nhà thờ, di tích tổ tiên bao đời để lại.. đều vì VC gây chiến tranh, mà tan tành theo cát bụi.

            Cuộc chiến tưởng đâu đã chấm dứt, vì VC dấu nhẹm tin tức từ ấy cho đến năm 2006, nhờ mạng lưới Internet của Bộ Quốc Phòng Trung Cộng (Defense-China.com) và tác phẩm ‘ Dữ kiện bí mật của cuộc chiến tranh Trung-Việt (Secret Records of Sino-Vietnamese War) ‘ của Jin Hui, Zhang Hui Sheng và Zhang WEi Ming, cả thế giới biết được ‘ Bí Mật Lịch Sử về việc Tàu chiếm Núi Ðất của VN, trong cuộc chiến biên giới lần hai (1984-1989) ‘.Theo tài liệu dẫn chứng, năm 1984 Trung Cộng lại vin cớ CSVN thường pháo kích và tấn công biên giới, nên bất thần tấn công cưởng chiếm Núi Ðất của VN tại tỉnh Hà Giang (Thượng Du Bắc Phần), mở màn cho cuộc chiến Biên Giới Việt Hoa lần thứ hai, kéo dài từ năm 1984-1989 mới chấm dứt, do Việt Cộng tự bỏ đất rút quân, nhượng bán (?) lãnh thổ cho giặc Tàu.

             CSVN, ngay từ lúc còn trong trứng nước vào những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ XX cho tới đại hội đảng bất thường lần thứ 6 vào đầu tháng 10-2012, từ Hồ Chí Minh tới tập đoàn cầm quyền Trọng-Sang-Dũng và hầu hết các chóp bu trong bộ chính trị và trung ương đảng “ đời đời biết ơn và luôn giữ sự thờ kính với Trung Cộng “. Ðiều này cũng không có gì lạ vì hầu hết các cán bộ lớn nhỏ của cộng đảng VN trước khi sang Liên Xô học hỏi kỹ thuật bán nước giết dân tại Ðông Phương Hồng, đều đã trải qua thời gian huấn luyện quân sự và chính trị tại Hoa Lục.

            Ngày nay nhờ sự bạch hoá của nhiều văn khố trên thế giới và nhất là sự tiết lộ của Tàu đỏ, cho thấy dã tâm của Trung Cộng qua cái gọi là ‘ đồng chí XHCN hay 4 tốt 16 chữ vàng ‘ thực chất chỉ là lợi dụng xương máu của người VN qua bình phong ‘ sát cánh anh em chung ý thức hệ cộng sản ‘ , để bảo vệ dùm biên giới phía nam của chúng. Năm 1968 sử gia Pháp Francois Joyaux đã dựa vào tài liệu lưu trữ trong văn khố kết luận “ sự có mặt lần đầu tiên của Mao tại hội nghị Geneve 1954, đã chứng tỏ sự quan tâm lớn lao tới tình hình Ðông Dương thời đó của Trung Cộng. Còn Paul Mus một học giả Pháp chuyên nghiên cứu về VN, vào năm 1965 đã viết ‘ Sở dĩ Mao nhượng bộ Pháp tại hội nghị Geneve 1954, mục đích cũng chỉ muốn ngăn chận sự thống nhất của VN cũng như không cho CSVN thống trị toàn thể bán đảo này ‘.
           
            Ðây mới là lý do quan trọng nhất để Trung Cộng sẳn sàng hy sinh mọi thứ, chẳng những dồn hết nhân vật lực hổ trợ cho Hà Nội, mà còn ra lệnh cho các đàn em Lào và Cao Miên cho Hồ Chí Minh sử dụng hành lang của hai nước này tại biên giới để Bắc Việt làm đường mòn. chuyển quân trang quân dụng vào xâm lăng VNCH. Tóm lại đời đời Trung Cộng vẫn coi Việt Cộng như là một phương tiện không hơn không kém để đạt cứu cánh của riêng mình.

            Mãi tới cuối thập niên 70 , quyền sinh sát toàn dân và non nước Việt vẫn nằm trong tay đảng CS, do một thiểu số ủy viên già nua thất học trong cái gọi là bộ chính trị VC được bầu bán từ năm 1960 gồm Hồ chí Minh, Duẩn, Giáp, Ðồng, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan, Lê Ðức Tho, Trường Chinh.. trong số này Hoàng Văn Hoan và Trường Chinh theo Tàu Ðỏ ra mặt. Sự tranh dành quyền lực đảng sau bức màn đỏ rất quyết liệt sắt máu, giữa hai phe Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Nguyễn Chí Thanh và Võ Nguyên Giáp, vì được bưng bít kỹ cho nên người ngoài ít ai biết được. Sinh thời HCM luôn coi trọng Giáp hơn Duẩn nên dù Duẩn là bí thư thứ I của đảng nhưng vẫn là phó cho Giáp trong quân ủy.

            Lúc đầu Duẩn vì có lập trường đối đầu với Giáp nên ngã theo Trung Cộng. Trong thời gian Khrushchev cầm quyền Liên Xô có chủ trương xét lại và chống đối Tàu đỏ, đồng thời ra mặt o bế Giáp đầu đảng phe thân Nga lúc đó, với mục đích chia rẽ nội bộ CSVN. Năm 1967 Khruchchev bị hạ bệ, Duẩn-Thọ vin vào thời cơ để tạo ra vụ án xét lại, loại bỏ gần hết phe đảng của Giáp. Riêng Giáp nhờ có HCM che chở nên được sống già vô tích sự tới ngày nay.

            Từ sau tháng 5-1975 mặt nạ ‘ đánh Mỹ cứu nước ‘ của CSVN đã rớt, cũng là lúc kết thúc trò đu dây giữa Nga-Tàu để hưởng lợi. Liên minh Ðông Dương cũng không còn qua sự phá hoại của Trung Cộng, quan hệ Việt-Hoa rạn nứt từ những ân oán cũ mới. Cuối cùng Duẩn bỏ Tàu theo Nga gây nên cuộc chiến long trời lở đất tại biên giới Việt-Miên-Hoa từ năm 1978-1990.

            Tháng 3-1985 Gorbachev làm tổng bí thư Liên Xô, phát động chính sách ‘ cởi mở (glasnov) và tái cấu trúc (perestroika) ‘ để cứu vản nền kinh tế của Nga đang trong cơn khủng hoảng vì phải cưu mang quá nhiều ngoại viện cho các nước chư hầu trong đó có CSVN. Ðồng thời, Gorbachev còn nối lại liên hệ với kẻ thù Hoa Kỳ và Trung Cộng. Trong bước đường cùng vì bị cả thế giới bỏ rơi ngoảng mặt, tháng 8-1986 Hà Nội tuyên bố rút hết quân ra khỏi Kampuchia và muốn nối lại quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Trường Chinh (tạm thay Lê Duẩn mới chết, làm quyền tổng bí thư) còn gửi điện văn chúc mừng quốc khánh của Tàu đỏ.

            Tóm lại sự suy sụp của đế quốc Liên Xô vào năm 1986 cộng thêm cái chết của Lê Duẩn, đã đưa CSVN vào ngõ cụt về ý thực hệ, kinh tế gần như khánh tận, quân sự bị sa lầy tại Kampuchia.. Nên để cứu đảng, cứu thân, bọn chóp bu tại bắc bộ phủ mới được bầu trong đại hội đảng lần thứ VI (Linh, Hùng, Công, Mười, Kiệt..) qua cố vấn của Chinh, Ðồng, Thọ “ quyết tâm phấn đấu để sớm được trở lại làm đầy tớ cho Tàu “. Trong lúc đó, Trung Cộng vẫn công khai xua quân chiếm thêm nhiều đất đai của ta tại biên giới và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của VN vào ngày 16-3-1988 trước sự phản ứng lấy lệ gần như đầu hàng giặc của chóp bu CSVN.

            Tháng 4-1989 Trung Cộng dùng xe tăng đại pháo tàn sát dã man sinh viên và dân chúng biểu tình đòi dân chủ tại quảng trường Thiên An Môn (Bắc Kinh). Từ cuối năm 1989-1990, Ðông Ðức, Ðông Âu và đế quốc Sô Viết tan rã, khối XHCN chỉ còn lại Tàu đỏ, Việt Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba. Trước nổi chết gần kề, ngày 10-4-1990 bộ chính trị cộng đảng VN họp khẩn để ‘ nhất trí  quyết tâm bằng mọi giá (kể cả bán nước, bán dân) được theo Tàu để bảo vệ XHCH. Và từ đó tới ngày nay 11-2012) , cái giá máu mà dân tộc VN phải đổ ra để CSVN trả nợ cho giặc Tàu là một phần lảnh thổ gồm đất đai, biển, đảo và sự Hán hóa dân tộc Việt của Trung Cộng.

            Ðổ Mười, Lê Khả Phiêu, Trần Ðức Lương, Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang.... đã và đang viết phần cuối trang sử nô lệ giặc Tàu mà Hồ Chí Minh đã đề ra từ năm 1930. VN sẽ trở thành một quận huyện của Trung Hoa như thời Bắc Thuộc. Tất cả đều là sự thật nhục nhã và đau lòng.
           
            Sau ngày 30-4-1975, hằng năm CSVN đều tổ chức ăn mừng ‘ chiến thắng Tết Mậu Thân 1968 ‘ và ‘ đại thắng mùa xuân 1975 ‘. Nhưng tuyệt đối không nhắc tới một chữ về những đau thương trầm thống mà giặc Tàu đã gây cho Nước Việt và Ðồng Bào Việt trong cuộc chiến biên giới Hoa-Việt khởi sự từ ngày 17-2-1979 và kéo dài tới đầu thập niên 1990 mới tạm dứt sau khi toàn bộ chóp bu VC đầu hàng Tàu đỏ.

            Ðã vậy VC còn công khai khinh thường và hạ nhục cả nước, khi đảng cùng với Trung Cộng rầm rộ tổ chức ăn mừng đã hoàn thành việc cắm mốc biên giói Việt-Trung tại Ải Nam Quan vào ngày 24-2-2009. Biên bản do Nguyễn tấn Dũng ký vào cuối năm 2008 nhưng đã tuyệt tích vì bị đảng ém nhẹm nên người dân không hề hay biết một điều gì.

            Tháng 4-2008, VC giup Tàu đỏ tổ chức rầm rộ cuộc rước đuốc máu thế vận hội Bắc Kinh tại Sài Gòn. Ngày 1-10-2012, VC hoan hĩ gửi điện văn và tổ chức ăn mừng  quốc khánh Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa của VN, mà giặc đã cưởng đoạt vào tháng 1-1974..Toàn cảnh bức tranh “ đời đời nhớ ơn giặc Tàu “ được Hồ Chí Minh và CSVN khắc cột ghi tâm, nên chuyện những người yêu nước chống ngoại xâm hiện nay tại VN bị tàn sát, tù đày, thủ tiêu và khủng bố..cũng chẳng làm ai ngạc nhiên và khiếp sợ, vì bộ mặt thặt của đảng từ trên xuống dưới đã bị nhận diện, sau khi cái gọi là “ hội nghị tự phê của đảng làn thứ 6 “ khai mạc và kết thúc vào tháng 10-2012, được các diễn đàn “ Dân Lam Báo, Quan Làm Báo, Báo Tổ Quốc, Biển Đông “ phổ biến sâu rộng khắp hang cùng ngõ hẹp trên trái đất. 
                       
            Ðại hội VI (1986-1991) ngoài thành tích đổi mới kinh tế theo định hướng XHCH để tạo thêm đặc quyền đặc lợi cho cán bộ, bộ đội, công an và tư bản đỏ làm giàu thêm nhờ than nhũng và ăn cắp của công. Tháng 7-1987 hội nghị trung ương đảng họp và ban hành nghị quyết số 2 cấm ‘ QUÂN ÐỘI NHÂN DÂN VN KHÔNG ÐƯỢC ÐỤNG CHẠM VỚI QUÂN TÀU ÐỎ ‘.Lệnh này được giữ kín mãi tới ngày 28-1-1990 báo Nhân Dân mới đăng tải.

            Tóm lại dù Tàu đỏ đã thẳng tay tàn sát cũng như tàn phá đất nước VN trong trận chiến biên giới Việt-Hoa ngày 17-2-1979 và liên tiếp những năm sau đó. Tại Biển Ðông, TC cướp chiếm Hoàng Sa và nhiều đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa của VN qua trận hải chiến năm 1988. Nhưng mai mĩa thay khi Lê Ðức Anh được cử làm bộ trưởng quốc phòng tại tại hội VI, đã đem ‘ quân đội nhân dân VC ‘ đầu hàng Tàu đỏ, mặc dù lúc đó sự giao hảo giữa hai nước vẫn chưa thông. Anh còn bắt xuạt bản cuốn từ điển Việt-Hoa để bộ đội ‘ cu’ học .

            Trong lúc Tàu đỏ gặp nhiều khó khăn quốc tế sau vụ tàn sát Thiên An Môn, các chóp bu VC đã không biết vin vào thời cơ này để lấy lại thế quân bình ngoại giao và uy tín của quốc gia. Trái lại bọn đầu lãnh già nua bảo thủ tại Bắc Bộ Phủ lúc đó như Linh, Mười, Anh.. chỉ biết cúi đầu tuân phục giặc để được chủ củ sớm cho làm đầy tớ trở lại. Vì thế vào ngày 29-8-1990 Linh và Mười, kể cả Phạm Văn Ðồng, đã ngoan ngoản từ Hà Nội sang Thành Ðô để gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng nhận lệnh của thiên triều.

            Bổn cũ tiếp tục soạn lại qua các lần đại hội đảng kế tiếp với Manh, Lương, Khải, Triết rồi Trong, Sang, Dũng..Tất cả đều theo đúng mẫu mã khuôn rập đã có sẳn từ thời Hồ Chí Minh của mấy chục năm về trước ban truyền “ đời đời theo Tau và nhớ ơn thiên triều “.Trung Cộng ngày nay còn hung dữ gấp trăm lần Quốc xã Ðức, Phát xít Ý và Quân phiệt Nhật., vậy mà lúc nào cũng to mồm chưỏi Nhật.

            Trong cơn sơn hà nguy biến, dân tộc sắp bị diệt vong, đồng bào cả nước và hải ngoại ai nấy đều chung căm hận, quyết chờ cơ hội thuận tiện để đồng đứng dậy lật đổ bọn ngụy quyền CSVN “ ác với dân nhưng hèn với giặc  “, , để đánh đuổi Tàu đỏ ra khỏi Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Ðông, Biên Giới.. như tổ tiên ta ngày trước đã từng làm. Vì VN không phải là một nước nhỏ, dân Việt không phải là loại người khiếp hèn. Nhõ hay hèn trước giặc Tàu phương Bắc, chỉ có đảng CSVN còn 80 triệu người Việt luôn khẳng định sức mạnh của mình, sẽ không bao giờ để cho Tàu đỏ hung hăng bá quyền nước lớn. Ngày đó không xa và chắc chắn VN sẽ dành lại những phần đất của tổ tiên, bị VC dâng bán cho Tàu đỏ suốt mấy chục năm qua, khi chúng bị hầu hết nhân loại quyết tâm tiêu diệt vì lòng tham lam hung bạo và vô nhân tính, qua ảo vọng làm chủ Biển Đông và siêu cường số 1 thế giới

Xóm Cồn Hạ Uy Di
Thang 12-2013
MƯỜNG GIANG


VTV-[Trang Lê Mới Nhất] chửi từ nhà ra phố, Trọng Lú sợ vỡ mật

https://www.youtube.com/results?search_query=Trang+L%C3%AA+%28B%C3%A0+Ngo%E1%BA%A1i%29

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-19/11/2024

Popular Posts

My Blog List