Xin chào các chị các em
S.T.T.D Tưởng
Năng Tiến (Danlambao) - "Một tổ chức độc lập, ra đời trong hoàn cảnh chế độ độc
tài sợ hãi bất cứ sự tập hợp nào của người dân Việt Nam, tất nhiên gặp phải
nhiều trở ngại... Nhưng bất chấp những khó khăn, chúng tôi tin tưởng rằng sự
làm việc tận tụy và công tâm sẽ mang lại uy tín; chứ không phải ngược lại."
- Huỳnh Thục Vy, thành viên Tổ Chức Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam
Khi đã bước vào lúc xế chiều, tôi mới
bắt đầu tin hơi ngờ ngợ rằng đời người (dám) đều “có số” hết trơn
chớ không phải chuyện giỡn chơi đâu nha.
Ở một nơi xa xôi diệu
vợi, có hôm, tôi nhận được thư nhà. Thư của mẹ hiền gửi từ cố lý.
Ý trời, đất, qủi thần, thiên địa ơi – ai mà dè má tôi biết viết!
Chớ trước giờ có thấy bà má cầm bút hồi nào đâu cà?
Báo chí, sách vở,
phim ảnh, truyền hình cũng không luôn. Có chăng chỉ là vài ba cuốn
kinh, đều đã long gáy, bằng tiếng Phạn mà bà cụ đọc làu làu (nghe
cứ như hát) nhưng hoàn toàn không hiểu nghĩa, và chắc cũng khỏi cần
hiểu làm gì.
Mẹ tôi không viết,
không đọc, và cũng mấy khi nói năng bình luận về bất cứ chuyện chi
trên cõi đời này. Chỉ có mỗi lần, duy nhất, vào lúc sớm – tôi nhớ
hoài – khi loa đài vừa oang oang:“Đây là tiếng nói của nhân dân tỉnh
Lâm Đồng” thì bà bỗng khó chịu lầu bầu: “Tụi nó đặt
điều nói hết chuyện này tới chuyện khác, từ sáng tới tối, chớ tao
có dám nói gì đâu mà biểu là tiếng nói của nhân dân!”
Mẹ tôi (rõ ràng) là
một người ít học, hay chính xác hơn là thất học. Bà sinh năm một
ngàn chín trăm... hồi đó – lâu lắc rồi – đâu khoảng hai mươi, hai mươi
hăm, hay hai mươi sáu... tôi không nhớ rõ.
Những phụ nữ cùng
thế hệ với mẹ tôi mà biết đọc và biết viết (chắc) không nhiều đâu.
Riêng bà Tôn Nữ Thu Hồng thì là một trường hợp ngoại lệ – theo
Wikipedia:
“Bà sinh ngày 19 tháng
7 năm 1922 tại Tourane (Đà Nẵng), nhưng quê quán gốc là làng Thần Phù, huyện
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên-Huế). Bà thuộc dòng dõi Hoàng
tộc nhà Nguyễn, trước học ở Tourane, sau vào học tại trường Đồng Khánh (Huế).
Năm 18 tuổi (1940), bà
cho xuất bản tập thơ đầu tiên (và cũng là duy nhất): Sóng thơ. Tập thơ in đẹp
(chưa rõ tên nhà xuất bản), có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ
họa sĩ Mộng Hoa. Năm 1941, bà và thơ của bà được Hoài Thanh-Hoài Chân giới
thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942).
Năm 1968, bà lại được
Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng giới thiệu trong bộ sách Việt Nam thi nhân
tiền chiến (quyển trung), xuất bản tại Sài Gòn. Và theo sách này, thì nữ sĩ Tôn
Nữ Thu Hồng đã chết trong một trường hợp bi đát vào năm 1948, khi mới 26 tuổi.”
Nhà nghiên cứu văn
học Thái Doãn Hiểu coi đây là một trong những cái chết “không minh
bạch, vô cùng bất công,” và cần được công luận minh oan:
Thu Hồng là trí thức nói
tiếng Pháp thành thạo, nhà cô thường tụ tập các thanh niên trí thức. Cô bị nghi
ngờ làm gián điệp cho Tây, bị công an bắt, giam giữ và tra khảo mấy tháng trời,
không lấy được cung. Cuối cùng, giết nhầm còn hơn bỏ sót, cô bị thủ tiêu giữa
rừng Thừa Thiên.
Kể lại chuyện đau lòng
này, ông Đào Hữu Thiết cán bộ an ninh người chứng kiến vẫn nhớ như in vóc dạc
cao to như gấu, khuôn mặt dữ dằn, rậm râu sâu mắt của tên sát nhân Trừng. Trên
đường giải cô lên Ty công An Thừa Thiên – Huế, hắn đã bắn lén cô từ đằng sau
lưng... Nàng thơ ra đi ở tuổi 26. Năm đó là tháng chạp năm 1948.
Theo tôi thì thà bị
“bắn lén từ sau lưng” chết “không minh bạch” vẫn đỡ hơn là sống dở và
chết dở trong nhà giam (suốt những năm tháng thanh xuân) cũng vì tội
danh “gián điệp” sau một phiên toà cũng chả “minh bạch” tí nào – như
trường hợp của bà Thụy An, một người đồng thời với thi sĩ Tôn Nữ
Thu Hồng.
|
Một trang
báo trích lời văn sĩ Thụy An. Ảnh:DR
|
“Thụy An là ai?
“Là phụ nữ duy nhất,
không viết bài cho NVGP, nhưng tên bà bị nêu lên hàng đầu trong ‘hàng ngũ phản
động’, bà bị quy kết là ‘gián điệp quốc tế’, lãnh án 15 năm tù cùng với Nguyễn
Hữu Đang. Những lời thoá mạ nhơ bẩn nhất dành cho bà ‘Con phù thủy xảo quyệt’
cùng những lời lẽ độc địa nhất: 'Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn
bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá
nhân dân'" - (Bàng Sĩ Nguyên, BNVGPTTADL, trang 120).
Tại sao lại có sự căm
thù ghê gớm đối với nhà thơ, nhà văn, nhà báo phụ nữ tiên phong của Việt Nam?
Người đầu tiên thực hiện nữ quyền bằng ngòi bút và hành động. Người chủ trương
giải phóng phụ nữ không bằng lý thuyết mà bằng việc làm. Người xác định vị trí
phụ nữ như một công dân tự do, thấm nhuần tinh thần dân chủ.” (Thụy Khuê. Nhân
Văn Giai Phẩm & Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc. Westminster, CA: Tiếng Quê
Hương, 2012)
Câu hỏi nghe như một
tiếng kêu (thảng thốt) của Thụy Khuê “tại sao có sự căm thù ghê ghớm”
mà Đảng Cộng Sản Việt Nam dành cho Thụy An, hay Thu Hồng (bao nhiêu năm
trước) vẫn có thể lập lại hôm nay cho trường hợp của Tạ Phong Tần –
một trong những phụ nữ Việt Nam đầu tiên chủ trương dân báo:
“Đã qua rồi cái thời
người dân chỉ được biết những gì nhà cầm quyền muốn cho họ biết, và không được
biết những gì nhà cầm quyền muốn bưng bít, giấu nhẹm bằng cách quản lý chặt chẽ
toàn bộ hệ thống báo chí trong nước...”
“Khi bạn đưa thông tin
lên blog của bạn, tức bạn đã đem sự hiểu biết của bạn truyền tải cho người khác
để mọi người cùng được biết, qua đó, mọi người cùng bàn luận, cùng kiểm tra
xem, dùng quyền công dân của mình đòi hỏi công chức Nhà nước phải thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà luật pháp quy định.”
“Có thể sự hiểu biết của
bạn chỉ là một phần nhỏ nào đó trong đời sống xã hội, nhưng nhiều người góp lại
sẽ tạo nên một bức tranh hiện thực xã hội hoàn chỉnh. Khi tự mình làm một nhà
báo công dân, chính bạn đã góp phần công khai, minh bạch hóa xã hội, cùng chung
sức xây dựng một xã hội dân sự cho đất nước chúng ta.”
Tạ Phong Tần viết
những dòng chữ thượng dẫn vào ngày 1 tháng 1 năm 2008. Đến ngày 4
tháng 10 năm 2012, bà bị tuyên án 10 năm tù (với tội danh “tuyên truyền
chống Nhà Nước”) sau một phiên toà cũng chả “minh bạch” chút nào.
Mà không cần phải là
nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội hay blogger (gì ráo
trọi) như Tôn Nữ Thu Hồng, Thụy An, Dương Thị Tân, Tạ Phong Tần, Lê Thị
Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn
Hoàng Vi, Trần Thị Nga, Bùi Thị Minh Hằng, Trần thị Hài, Nguyễn Thị
Lụa, Phương Bích, Đoan Trang, Mẹ Nấm... cuộc đời mới te tua hay bầm
dập đâu nha. Một bà già thất học, không đọc, không viết, cũng không
phát biểu (linh tinh) bao giờ như má tôi mà cũng đâu mấy khi được sống
an lành.
Năm 1954, bà bỏ hốt
hoảng bỏ hết ruộng vườn nhà cửa bồng con chạy một mạch từ Bắc vào
Nam. Hai mươi mốt năm sau – vào tháng 4 năm 1975 – trong lúc cả triệu
người hân hoan đón chào cách mạng thành công thì bà lui hui dốc hết
nước mắm từ chai vô nồi rồi đun cho keo lại thành mắm quẹt: “Để
dành ăn dần con ơi, chứ họ vào đây mà thấy nhà mình có hơn chục chai
nước mắm thì chết chứ chả bỡn đâu.”
Mẹ tôi (e) có hơi quá
lời về sự hà khắc của “họ” nhưng thời gian đã chứng minh rằng mọi
dự liệu của bà về cuộc sống mới trong XHCN – nói chung – hoàn toàn
không... trật. Dân Việt, quả nhiên, cứ “chết” đều đều – dù có vượt
biên, vượt biển, hay không.
Hồi cuối thế kỷ
trước, trên trang thư tòa soạn của tạp chí Thế Kỷ 21 – số 103, phát hành vào
tháng 11 năm 97– nhà báo Vương Hữu Bột đã tường thuật đôi ba trường hợp chết
đói xảy ra ở Việt Nam. "Có người chết đói ngay tại chợ Bến Thành. Chết đói
vì không có gì để ăn!" Ông ghi lại theo lời kể của một người bạn, một
doanh nhân vừa từ Sài Gòn sang Mỹ lo việc kinh doanh.
Có lẽ sợ rằng viết lách
theo kiểu (nghe nói) như vậy không thuyết phục, ông Vương Hữu Bột còn
trích dẫn thêm một câu chuyện khác, từ báo Thanh Niên. "Tờ báo loan
tin một thiếu phụ ở Sài Gòn đã giết hai con rồi thắt cổ tự tử. Chị ta còn đủ
bình tĩnh viết lá thư để lại, giải thích vì không có cách nào kiếm sống nên
chọn cái chết.”
Cuối thư, tác giả
(bùi ngùi) kết luận:
"Chắc mỗi người
chúng ta không thể gánh trách nhiệm về hạnh phúc và an lạc của tất cả mọi nguời
khác. Nhưng tất cả chúng ta, với tính cách một chủng loại, phải chia sẻ trách
nhiệm khi còn những đồng bào khổ đau, cùng quẫn. Một xã hội văn minh phải thu
xếp với nhau đừng để cho những cảnh cùng quẫn đó xảy ra mới phải."
Qua đến đầu thế kỷ
này, chuyện “thu xếp” để đừng đẩy tha nhân (hay nhân dân) vào những
cảnh đời “cùng quẫn” – xem ra – vẫn chưa được ổn thoả. Từ Sài Gòn,
blogger Phạm Chí Dũng có bài tường thuật (“Vô Cảm Quan Chức Và Cái
Chết Vì Nghèo”) đọc được qua BBC – vào hôm 11 tháng 6 năm 2013. Xin
trích dẫn một đoạn ngắn:
“Tự tử vì nghèo đã trở
thành một hiện tượng mãn tính trong xã hội được mô tả là chịu ăn chơi bậc nhất
thế giới. Một bà mẹ xấu số nguyện dùng tiền phúng viếng của mình để trả nợ và
nộp học phí cho con… Hai cô gái đang tuổi xuân xanh rủ nhau uống thuốc diệt cỏ
tự vẫn vì không có tiền nộp phạt vi phạm giao thông…
Báo chí và người dân hẳn
cũng chưa quên câu chuyện của chị Lê Thị Ngọc N. cũng xảy ra tại TP. Cà Mau
cách đây không quá lâu. Trước khi chết, N. đã từng thổ lộ muốn tìm đến cái chết
vì nghèo khổ quá.”
Những thảm trạng
“mãn tính” xẩy ra cho phụ nữ – như trên – đã kéo dài gần hai phần ba
thế kỷ, ở Việt Nam. Sự kiện này đã khiến cho tiến sĩ Nguyễn Thị Từ
Huy (vô cùng) sốt ruột và sốt tiết. Bà đặt (và đẩy) vấn đề cho nam
giới ở xứ sở này:
“Bao giờ các anh sẽ thôi
tán phét trong các quán nhậu? Bao giờ các anh quyết định thôi sống hèn?”
Ủa, tôi tưởng chuyện
này đã có một vị mày râu xứ Việt (ông Bùi Minh Quốc) nêu ra và giải
quyết xong xuôi lâu rồi mà:
Bao nghẹn uất Nguyệt Nga
xé trời kêu chẳng thấu
Giữa chợ đời biệt dạng
Lục Vân Tiên
Hảo hớn bận giang hồ
quán nhậu
Thi nhau bốc phét để
quên hèn
Cách “giải quyết”
(theo kiểu nó coi như huề vốn) của Bùi Minh Quốc, tuy chưa được hoàn
toàn rốt ráo nhưng theo Chủ Nghĩa Nam Nữ Bình Quyền thì đàn ông và
đàn bà đều bình đẳng về quyền lợi cũng như nghĩa vụ. Đèn nhà ai,
nhà nấy sáng. Chuyện phái nào phái ấy (phải) lo chớ bộ.
Và nhờ Trời là
chúng ta không phải “lo” lâu. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2013 vừa qua,
thông tín viên Tường An (RFA) đã long trọng loan tin “Xã hội dân sự Việt
Nam vừa có thêm một thành viên mới: đó là một nhóm có tên gọi là: “Phụ Nữ Nhân
Quyền Việt Nam.” Xin được ghi lại đôi dòng về tôn chỉ của tổ chức xã
hội dân sự (http://vnwhr.net/) này để rộng đường dư luận:
Gắn kết các cá nhân phụ
nữ chịu thiệt thòi và dễ bị tổn thương từ các vụ việc vi phạm Nhân quyền.
Lên tiếng và có những
hành động bảo vệ thiết thực đối với những người phụ nữ đã và đang bị xâm phạm
phẩm giá và các quyền con người cơ bản.
Chia sẻ và tuyên truyền
những kiến thức nhằm nâng cao trình độ hiểu biết của phụ nữ Việt Nam về quyền
con người và về vai trò của phụ nữ trong một xã hội tôn trọng nhân quyền.
Các vận động viên và
thành viên của nhóm “Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam”. Courtesy vnwhr.net
Ngay sau đó, không ít
tổ chức, đoàn thể, cũng như vô số qúi vị thức giả đã lên tiếng hoan
hô và ủng hộ sự ra đời (dù muộn màng) của Tổ Chức Phụ Nữ Nhân
Quyền Việt Nam. Là một thường dân, tôi không đủ tư cách để “lên tiếng”
theo cùng cung cách đó nên chỉ mong được phép thay mặt mẫu thân (nhân
ngày giỗ của bà) xin gửi lời chào trân trọng và thân ái đến các
chị, các em – những người vừa mở đầu một trang sử mới cho phụ nữ
Việt Nam.
Việt Nam gia tăng đàn áp giới blogger
Cần có phản ứng ngoại
giao mạnh mẽ trước các vụ bắt giữ và hành hung gần đây
Human Right Watch - (New York, ngày 20 tháng Sáu năm 2013) –
Hôm nay, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng chính quyền Việt Nam cần
phóng thích vô điều kiện những blogger mới bị bắt trong thời gian gần đây và
chấm dứt các vụ hành hung nhằm vào những người lên tiếng phê phán. Các nhà tài
trợ và đối tác thương mại của Việt Nam cần công khai yêu cầu chính quyền nước
này hủy bỏ việc áp dụng luật hình sự để trừng phạt các nhà hoạt động ôn hòa.
Nhà hoạt động nhân
quyền Nguyễn Hoàng Vi phân phát bản Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền cho mọi
người tại công viên 30 tháng Tư vào ngày 5 tháng Năm năm 2013. - © 2013 Dân Làm
Báo
Tổ chức Theo dõi Nhân
quyền kêu gọi trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện những người mới bị bắt
trong thời gian gần đây, là blogger Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào và nhà
hoạt động trên mạng internet Đinh Nhật Uy, đồng thời tiến hành điều tra các tố
cáo về việc công an hành hung các nhà hoạt động trên mạng gồm Nguyễn Chí Đức,
Nguyễn Hoàng Vi và Phạm Lê Vương Các, những công dân cần được chính quyền bảo
vệ an ninh.
“Chính sách đàn áp mọi
tiếng nói phê phán, dù lớn hay nhỏ, của Việt Nam sẽ chỉ đưa đất nước này lún
sâu hơn vào khủng hoảng,” ông Brad Adams, Giám đốc Ban Á Châu của Tổ chức Theo
dõi Nhân quyền nói. “Những vụ bắt giữ và tấn công các blogger mới đây cho thấy
chính quyền sợ thảo luận công khai về dân chủ và nhân quyền đến mức nào.”
Rất nhiều vụ bắt giữ
được áp dụng theo điều 258 của Bộ Luật Hình sự Việt Nam, một trong các điều
luật mơ hồ và có độ co giãn cao thường được dùng để đàn áp những người thực thi
quyền tự do ngôn luận. Các vụ bắt giữ và hành hung trong thời gian gần đây gồm
có:
- Ngày 26 tháng Năm năm
2013, lực lượng an ninh Bộ Công An bắt giữ blogger Trương Duy Nhất vì đã “lợi
dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân,” theo tờ báo Thanh Niên ở Việt Nam. Vụ bắt giữ blogger
49 tuổi tại nhà riêng của ông ở thành phố Đà Nẵng diễn ra sau khi ông đăng tải
trên blog cá nhân “Một góc nhìn khác” nổi tiếng một bài kêu gọi Thủ tướng Việt
Nam Nguyễn Tấn Dũng và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản cầm quyền Nguyễn Phú Trọng từ
chức, cho rằng họ đã dẫn dắt đất nước Việt Nam lún sâu hơn vào những khó khăn
chính trị và kinh tế.
- Ngày mồng 7 tháng Sáu
năm 2013, năm người được cho là công an hành hung blogger Nguyễn Hoàng Vi, 26
tuổi (còn được biết với tên An Đổ Nguyễn) và nhà hoạt động pháp lý Phạm Lê
Vương Các trên một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Theo giới blogger Việt
Nam, những kẻ tấn công đã theo dõi Nguyễn Hoàng Vi và gia đình cô trong suốt
mấy ngày rồi đánh cô ngã, gây ra những vết thương phải vào bệnh viện chữa trị.
Nguyễn Hoàng Vi là một người nổi tiếng trên mạng Internet; cô đã từng bị tấn
công trong hai ngày mồng 5 và 6 tháng Năm năm 2013 sau những nỗ lực tổ chức
buổi “dã ngoại nhân quyền” ở thành phố Hồ Chí Minh với vai trò chủ chốt.
- Vào ngày 13 tháng Sáu,
công an bắt giữ blogger Phạm Viết Đào tại nhà riêng ở Hà Nội, cũng với lý do
“lợi dụng tự do dân chủ,” theo tuyên bố của Bộ Công An, một tín hiệu cho thấy
khả năng ông sẽ bị truy tố theo điều 258. Tương tự như Trương Duy Nhất, trang
mạng của Phạm Viết Đào cũng từng lên tiếng phê phán một số nhà lãnh đạo chính
trị Việt Nam.
- Ngày 15 tháng Sáu,
Đinh Nhật Uy bị bắt theo điều 258. Em trai anh, Đinh
Nguyên Kha, đã bị xử tám năm tù vào ngày 16 tháng Năm năm 2013 vì phát tán tờ rơi phê phán các chính sách
đối nội và đối ngoại của nhà nước Việt Nam. Đinh Nhật Uy, 30 tuổi, bị bắt ở
tỉnh Long An sau khi phát động một phong trào đòi trả tự do cho em trai mình
trên mạng Internet và đăng tải các hình ảnh và bài viết qua tài khoản Facebook
của mình. Theo Thông tấn xã Việt Nam - cơ quan thông tấn chính thức của Việt
Nam, anh bị cáo buộc vì “nội dung sai sự thật, xuyên tạc làm ảnh hưởng đến uy
tín của cơ quan nhà nước.”
Điều 258 được áp dụng để
truy tố những người bị chính quyền coi là “lợi dụng các quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền
tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, công dân” và quy định mức án lên đến bảy năm tù đối với những người bị
coi là phạm tội này trong “các trường hợp nghiêm trọng.” Các tòa án theo mệnh
lệnh chính trị ở Việt Nam thường áp dụng các điều khoản nói trên để xử tù những
người công khai bày tỏ ý kiến một cách ôn hòa.
Tổ chức Theo dõi Nhân
quyền nhận xét chính quyền Việt Nam liên tiếp gia tăng đàn áp các tiếng nói chỉ
trích tham nhũng và chuyên quyền. Những người bị chính quyền nhắm tới trong
thời gian gần đây đại diện cho nhiều thành phần công luận, vì Trương Duy Nhất,
Phạm Viết Đào và Nguyễn Chí Đức từng làm việc cho bộ máy chính quyền, Trương
Duy Nhất từng làm cho báo chí chính thống, Phạm Viết Đào từng là cán bộ nhà
nước còn Nguyễn Chí Đức từng là đảng viên Đảng Cộng sản. Đinh Nhật Uy, Nguyễn
Hoàng Vi và Phạm Lê Vương Các phản ánh tiếng nói bất đồng của một thế hệ trẻ
hơn, không có ràng buộc gì với bộ máy nhà nước.
“Các nhà tài trợ và đối
tác thương mại cần đứng về phía những người Việt Nam đang đấu tranh cho các
quyền tự do của mình, và lên tiếng công khai rằng không ai có thể bị bắt hay
hành hung vì bày tỏ ý kiến,” ông Adams nói. “Họ cần khẳng định rằng tương lai
duy nhất của các nước muốn phát triển và hiện đại hóa là một xã hội tự do và
cởi mở, ở đó các tiếng nói phê phán được chính quyền ghi nhận là một phần bình thường
của tiến trình chính trị.”
Khuyến nghị: Về việc chấm dứt các hành vi xâm phạm nhân quyền ở
Việt Nam
Tiến sĩ luật Cù Huy Hà
Vũ - Tôi, Tiến sĩ
Luật Cù Huy Hà Vũ, công dân Việt Nam, bị Nhà nước Công hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam cầm tù về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Công hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” quy định tại Điều 88 Bộ Luật hình sự Việt Nam, có một
số khuyến nghị sau đây nhằm chấm dứt các hành vi xâm phạm nhân quyền ở Việt
Nam.
Cụ thể là trong khuôn khổ đối thoại nhân quyền
giữa Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam, Chính phủ Mỹ cần yêu cầu chính quyền
Việt Nam:
1. Hủy bỏ các điều luật phản nhân quyền của Việt Nam và trả tự do vô
điều kiện cho các tù nhân lương tâm;
2. Luật hóa Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn.
I. Hủy bỏ các điều 88, 258, 79 bộ luật hình sự
Việt Nam và trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân lương tâm
Chắc chắn ở trong Luật hình sự của mọi quốc gia
đều có quy định trừng phạt hành vi “lật đổ chính quyền”, tức hành vi dùng bạo
lực để chấm dứt sự tồn tại của chính quyền. Trong Bộ Luật hình sự Việt Nam quy
định đó là Điều 82 - “Tội bạo loạn” (Người nào hoạt động vũ trang hoặc dùng bạo
lực có tổ chức nhằm chống chính quyền nhân dân). Thế nhưng đối với chính quyền
Việt Nam thì bất đồng chính kiến, tức bày tỏ quan điểm chính trị một cách hòa
bình hay phi bạo lực cũng được xem là nguy hiểm, đe dọa đến sự tồn tại của
chính quyền này. Do đó, chính quyền Việt Nam đã đặt ra “Tội tuyên truyền chống
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 88 Bộ luật hình sự) hoặc
“Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, công dân” (Điều 285 Bộ luật hình sự) để đàn áp những
người bất đồng chính kiến với tư cách cá nhân và “Tội hoạt động nhằm lật đổ
chính quyền nhân dân” (Điều 79 Bộ luật hình sự Việt Nam) để đàn áp những người
bất đồng chính kiến tập hợp thành tổ chức. Nói cách khác, không chỉ đảng phái
mà mọi tổ chức chủ trương cạnh tranh chính trị với Đảng cộng sản Việt Nam một
cách phi bạo lực đều là đối tượng của Điều 79 Bộ luật hình sự Việt Nam.
Từ trước tới nay, Mỹ nói riêng, các nước dân chủ
nói chung, thiên về yêu cầu chính quyền Việt Nam trả tự do cho các tù nhân
lương tâm như bằng chứng của việc cải thiện nhân quyền ở Việt Nam. Thế nhưng
phương thức làm việc như vậy không giải quyết triệt để được vấn đề tù nhân
lương tâm ở Việt Nam vì các Điều 88, 258, 79 Bộ Luật hình sự Việt Nam vẫn tồn
tại. Thực tế cho thấy chính quyền Việt Nam trả tự do cho một số tù nhân lương
tâm nhưng tiếp tục dựa vào các điều luật hình sự này để bỏ tù những người bất
đồng chính kiến khác. Mới hôm qua thôi, chính quyền Việt Nam đã bắt ông Nguyễn
Hữu Vinh, tức blogger Anh Ba Sàm và cộng tác viên của ông là cô Nguyễn Thị Minh
Thúy.
Do đó, Chính phủ Mỹ cần yêu cầu chính quyền Việt
Nam hủy bỏ các điều luật phản nhân quyền này với lý do các điều luật này là
hoàn toàn trái pháp luật, cụ thể là trái Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị mà Việt Nam là thành viên và trái với chính Hiến pháp và các luật
liên quan của Việt Nam, như tôi chứng minh sau đây.
Điều 88 -Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
- Khoản 1 Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị quy định: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà
không bị ai can thiệp”. Quy định này có nghĩa“không ai có thể bị Nhà nước
sách nhiễu, truy bức, càng không bị bắt bớ, bỏ tù do có những quan điểm chính
trị trái với quan điểm của Nhà nước”.
Điều 12 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định: “Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
Khoản 1 Điều 6 Luật Ký kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế Việt Nam quy định:“Trong trường hợp văn bản quy phạm
pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước
quốc tế”.
- Khoản 2 Điều 16 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy
định: “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị”, điều
này có nghĩa không ai có thể bị Nhà nước sách nhiễu, truy bức, càng không bị
bắt bớ, bỏ tù do có những quan điểm chính trị trái với quan điểm của Nhà nước.
Điều 258 -Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
- Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội”. Khoản 4 Điều 15 Hiến pháp 2013 quy định: “Việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Như vậy theo Hiến pháp Việt
Nam quyền con người, quyền công dân hoặc được thực hiện hoặc không được thực
hiện trong trường hợp luật định chứ không thể bị “lợi dụng”.
Khoản 1 Điều 119 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy
định: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với
Hiến pháp”. Do Hiến pháp Việt Nam 2013 loại trừ hành vi “lợi dụng quyền con
người, quyền công dân” nên “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định tại
Điều 258 Bộ Luật Hình sự Việt Nam mặc nhiên vô hiệu.
Điều 79. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân
Trước hết, mọi công dân Việt Nam có quyền thành
lập hoặc tham gia tổ chức với những căn cứ pháp luật sau:
- Khoản 1 Điều 22 Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên quy định “Mọi người có
quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công
đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”.
- Điều 25 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định “Công
dân có quyền lập hội”.
Tiếp theo, căn cứ Khoản 1 Điều 19 Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên và Khoản 2 Điều
16 Hiến pháp Việt Nam 2013 như trên đã nói, hội/tổ chức của công dân Việt Nam
có quyền bày tỏ quan điểm chính trị của mình cho dù quan điểm đó trái với quan
điểm của chính quyền đến đâu.
Như vậy, việc công dân Việt Nam thành lập hoặc
tham gia tổ chức chủ trương đấu tranh chính trị một cách phi bạo lực là hoàn
toàn hợp pháp và không thể bị coi là nhằm lật đổ chính quyền.
Kết luận lại, do trái với luật pháp quốc tế về
quyền con người và trái với chính Hiến pháp của Việt Nam, Nhà nước Việt Nam
phải hủy bỏ không chậm trễ các Điều 88,285,79 Bộ luật hình sự và trả tự do ngay
tức khắc và vô điều kiện cho những tù nhân lương tâm bị kết án theo những điều
luật phản nhân quyền này.
II. Luật hóa công ước Liên Hợp Quốc về chống
tra tấn
Ngày 7 tháng 11 năm 2013 Việt Nam đã tham gia
Công ước Liên Hiệp Quốc về chống Tra tấn và những hình phạt hoặc sự đối xử tàn
ác, hạ nhục nhân cách (UNCAT). Ngay sau đó, ngày 28 tháng 11 năm 2013, Quốc Hội
Việt Nam đã thông qua Hiến pháp mới, ghi nhận nội dung cơ bản của Công ước này.
Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không
bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Thực ra từ 1982 Việt Nam đã là thành viên của
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị trong đó Điều 7 quy định “Không
ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc
hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học
hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó”. Ngoài ra,
trong Bộ luật hình sự Việt Nam có Điều 298 – Tội dùng nhục hình và Điều 299 –
Tội bức cung. Thế nhưng tra tấn không những không giảm mà còn gia tăng và điều
này tỷ lệ thuận với sự gia tăng số người chết do bị tra tấn bởi quy định nói
trên của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị cũng như các biện
pháp răn đe, phòng ngừa, giảm thiểu tra tấn đã không được luật hóa một cách đầy
đủ và chi tiết. Vì vậy, Chính phủ Mỹ cần yêu cầu chính quyền Việt Nam khẩn
trương luật hóa Công ước Liên hợp quốc chống tra tấn cũng như Khoản 1 Điều 20
Hến pháp Việt Nam năm 2013, trong đó:
1. Tội danh hóa các hành vi tra tấn được quy định trong Công ước bổ
sung cho “Tội dùng nhục hình” và “Tội ép cung” đã được quy định trong Bộ luật
hình sự;
2. Ban hành luật bảo đảm luật sư được tự do tiếp cận người bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phạt tù;
3. Ban hành luật bối thường cho các nạn nhân của tra tấn;
Chỉ khi nào chính quyền Việt Nam hủy bỏ các điều
luật được dùng làm căn cứ để bỏ tù những người bất đồng chính kiến ôn hòa và
trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân lương tâm cũng như luật hóa Công ước
Liên Hợp quốc về chống tra tấn thì Việt Nam mới có thể đóng được vai trò của
mình trong Hội đồng nhân quyền của Liên Hiệp Quốc và người dân Việt Nam mới có
thể hy vọng có được một nền Dân chủ đích thực.
Washington DC, 05/6/2014
Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ
Email: cuhuyhavuvietnam@gmail.com
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền