----- Forwarded Message -----
From:
To:
Sent: Wednesday, April 30, 2014 8:41 PM
Subject: Nhà Văn Phạm Đình Trọng làm việc với Côn An
From:
To:
Sent: Wednesday, April 30, 2014 8:41 PM
Subject: Nhà Văn Phạm Đình Trọng làm việc với Côn An
Phạm Đình Trọng: Tường
trình một buổi làm việc với công an
Làm việc với tôi lúc đầu
là hai người: một công an cấp thành phố tên Tuấn ngoài năm mươi tuổi, nước da
màu đồng ruộng, mặt nhọn chữ V, đã quá quen mặt với tôi suốt mấy năm nay và một
người trẻ hơn ông Tuấn vài tuổi, mặc áo thun đen được ông Tuấn giới thiệu cũng
là công an thành phố.
Tôi hỏi tên, người đó
nói tên Sang. Tôi tin chắc ông Sang không phải là công an cấp thành phố mà là
công an cấp bộ.
Tôi đến trụ sở công an
xã Phước Kiển vào phòng trung tá Lâm Ngọc Thích, trưởng công an xã, hỏi: Thưa
anh, tôi được mời đến làm việc ở phòng nào. Ông Thích hỏi ngay: Bác là bác Trọng
phải không? Ông Thích mời ngồi, pha ấm trà mới tiếp khách và bảo tôi bác ngồi
đợi chút, các anh đó đang đến.
Tôi hỏi thăm gia đình, ông Thích bảo quê ông bà
nội ngoại của ông đều ở xã Phước Hải, cạnh xã Phước Kiểng này. Ông vui vẻ, cởi
mở khoe rằng anh thiếu úy Lê Phương Tinh, công an khu vực dân cư nơi tôi ở,
người hai lần mang giấy mời của công an đến cho tôi chính là con rể của ông,
lấy con gái đầu của ông.
Uống ngụm trà rồi tôi ra
sân đợi thì ông Tuấn đến. Tôi và ông Tuấn đến phòng ông Thích đi ngang qua một
người mặc áo thun đen đứng bên chiếc xe máy ngay cửa phòng ông Thích. Ngôn ngữ
trao đổi và cử chỉ của ông Thích và ông Tuấn cho tôi hiểu rằng ông Thích giục
làm việc đi, ông Tuấn bảo đợi thêm người, ông Thích liền chỉ người mặc áo thun
đen. Lúc đó ông Tuấn mới biết rằng người mặc áo thun đen đứng trước phòng ông Thích
chính là người sẽ cùng ông Tuấn làm việc với tôi. Người mặc áo thun đen chính
là ông Sang.
Sự không quen biết nhau
giữa ông Tuấn và ông Sang cho tôi hiểu rằng ông Sang không cùng đơn vị công an thành phố với ông Tuấn thì ông
Sang phải là công an cấp bộ. Sau phần thủ tục đầu tiên ông Tuấn hỏi tôi về sức khỏe để ghi
vào biên bản rằng tôi đủ sức khỏe và đủ minh mẫn để làm việc.
Tôi nói: Lần trước các anh gửi giấy mời nhưng tôi không đi vì những bài viết
của tôi là của đời sống dân sự. Hiến pháp cho công dân được tư do ngôn luận
đã cho tôi được viết bộc lộ suy nghĩ, tình cảm, chính kiến. Nếu tôi viết có
gì sai, các anh cứ kiện tôi ra tòa án, tôi sẽ hầu kiện. Đó là đời sống dân sự. Nhưng công an vào cuộc về những bài viết của tôi thì đã hình
sự hóa đời sống dân sự rồi. Tôi không chấp nhận đời sống dân sự bị hình sự
hóa như vậy.
Lần này lại nhận được
giấy mời của các anh, tôi đã định không đi. Nhưng thấy những bài viết bộc lộ
suy nghĩ, tình cảm của tôi chỉ là việc nhỏ nhặt trong đời sống dân sự mà cứ để
các anh nay mời, mai mời làm cho sự việc nhỏ trở thành lớn, trở thành căng
thẳng và các anh phải đi lại nhiều lần vất vả nên tôi đến đây gặp các anh. Tôi
coi đây chỉ là cuộc gặp dân sự nói chuyện để hiểu biết nhau nên tôi không kí
bất kì một biên bản nào để hình sự hóa cuộc gặp này.
Ông Tuấn gọi tôi là chú.
Ông Sang gọi tôi là bác. Hai người thay nhau hỏi. Bác có trang cá nhân facebook
không? Bác có trang này lâu chưa? Mục đích chú lập trang facebook để làm gì?
Tôi nói rằng ở thời công nghệ thông tin này, trang facebook đã trở thành rất
phổ biến từ bà nội trợ đến cô học trò cấp hai, từ anh nông dân đến ông cán bộ
nhà nước đều có trang facebook công khai những sự việc, những vui buồn trong
ngày của mình để được cộng đồng facebook trên khắp thế giới chia sẻ, tạo ra một
thế giới phẳng rộng lớn.
Tôi mới có trang
facebook từ năm 2013. Cũng như mọi người, tôi ghi lại những vui buồn, nghĩ suy,
trăn trở trên facebook. Khác mọi người, tôi là nhà văn. Tôi không chỉ buồn vui,
nghĩ suy về cá nhân tôi mà tôi buồn vui, nghĩ suy, trăn trở về đất nước, về
nhân dân, về thời cuộc.
Ông Tuấn đưa cho tôi xem
hai tờ giấy A4 in một list tên những bài viết của tôi từ trang web Đàn Chim
Việt và hỏi đây có phải những bài viết của chú không? Chú thường gửi bài cho
những mạng nào? Trả lời: Tôi thường gửi bài cho trang Boxitvn và trang Diễn Đàn
Xã Hội Dân Sự. Đàn Chim Việt vẫn đăng bài của chú mà? Không phải chỉ có Đàn
Chim Việt, các trang web khác đều tải bài của tôi từ trang Boxitvn và trang
Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự.
Có lẽ ông Sang không
phải là người chuyên trách theo dõi tôi nên hỏi nhiều câu thuộc về sơ yếu lí
lịch mà người chuyên trách về tôi phải rành rẽ từ đầu như: Bác có tham gia công
tác cách mạng gì không? Bác có tham gia tổ chức xã hội nào không. Tôi nói tôi
là người lính nhập ngũ từ năm 1963 mà cuộc chiến tranh chống Mĩ đến năm 1965
mới thực sự nổ ra. Tôi đã tham gia trọn vẹn ba cuộc chiến tranh.
Chiến tranh
chống Mĩ. Chiến tranh chống Pôn Pốt. Chiến tranh chống Tàu ở biên giới phía
Bắc. Cuộc chiến tranh chống Mĩ, tôi là người lính ở mặt trận Tây Nguyên. Sau
năm 1975, tôi được điều về Tổng cục Chính trị, là nhà văn ở tạp chí Văn Nghệ Quân
Đội rồi làm biên kịch ở Xưởng phim Quân đội. Hai cuộc chiến tranh sau, tôi là
nhà văn, nhà báo quân đội. Tôi là hội viên các hội: hội Nhà Văn Việt Nam, hội
Nhà Báo Việt Nam, hội Điện ảnh Việt Nam.
Ông Sang có hỏi tôi về
Văn Đoàn Độc Lập nhưng chỉ hỏi thoáng qua. Sau này khi nhân vật công an thứ ba xuất hiện mới hỏi nhiều về Văn
Đoàn Độc Lập và nhân vật này cũng biết rất rõ về tôi và gia đình tôi mà tôi tin
chắc đó chính là người chuyên trách về tôi. Hỏi qua về Văn Đoàn rồi ông Sang
lại quay về cá nhân tôi: Bác là hội viên hội Nhà Văn từ khi nào? Tôi không nhớ
rõ năm nào nhưng lâu rồi.
Tôi trả lời và nhìn Sang, nói: Tôi biết anh không
phải là công an thành phố mà là công an bộ. Sang cười. Nụ cười thú nhận.
Sau cuộc gặp, nhìn lại
ba công an vừa làm việc với tôi, tôi thấy ở ông Sang phần người còn nhiều hơn
cả trong ba công an, phần công cụ chưa lấn át phần người. Hai người còn lại thì
phần người đã bị khuất lấp sau phần công cụ.
Ông Tuấn đưa ra một tập
những bài viết của tôi được in từ trên mạng và bảo tôi kí xác nhận: Lần trước
chú đã kí 19 bài rồi. Hôm nay chú kí tiếp những bài này.
Tôi bảo lần này tôi
không kí vì ba lẽ:
1/ Một là không cần
thiết. Bài viết đã ghi rõ tên tôi là đủ để xác nhận rồi.
2/ Hai là lần trước tôi
kí đã tạo ra tiền lệ để lần này tôi lại được mời đến gặp các anh để kí. Mấy
tháng sau tôi có những bài viết mới lại bị gọi lên kí lần thứ ba. Rồi lần thứ
tư. Lần thứ n. Là nhà văn, tôi không thể
thờ ơ với cuộc sống, với số phận nhân dân, số phận đất nước nên cứ phải viết
cho đến lúc từ giã cuộc đời. Rồi đến lúc sắp chết sẽ
lại bị các anh nhét bút vào tay bắt kí.
3/ Ba là công dân có quyền tự do ngôn luận vì thế bài viết của tôi hoàn toàn
hợp pháp trong đời sống dân sự. Tôi phải kí xác nhận bài
viết với công an là tôi đã tự hình sự hóa bài viết của tôi. Tôi không thể làm
điều đó.
Ông Sang bảo: Bài của
bác sao bác không dám kí. Bác sợ à? Tôi mỉm cười: Nếu sợ tôi đã không dám viết.
Có viết cũng không dám kí tên thật mà phải dùng một cái tên ảo Nguyễn Văn Sang,
Nguyễn Văn Hèn nào đó. Tất cả các bài viết của tôi trên mạng suốt bao năm nay
tôi đều ghi tên đầy đủ, rõ ràng. Không có bài nào tôi phải giấu tên. Điều đó
xác nhận rằng tôi chẳng có gì phải sợ hãi. Làm
đúng với lương tâm, trách nhiệm và luật pháp thì có gì phải sợ hãi, anh Sang nhỉ.
Ông Tuấn cắm cúi viết
chắc là ghi biên bản. Chỉ còn đối đáp của ông Sang và tôi. Việc trùng tên rất
thường gặp. Cũng có khi người khác ghi tên bác ở bài của họ thì sao. Vì thế bài
nào của bác, bác phải kí xác nhận để phân biệt với những bài khác.
Tên của tôi và bài viết của tôi là một chỉnh thể thống nhất. Văn
phong, giọng điệu, ngôn ngữ, tình cảm, thái độ và cả kiến thức, trí tuệ trong
bài viết của tôi cũng đã làm nên cái tên Phạm Đình Trọng và cái tên đó luôn là
một chỉnh thể thống nhất với bài viết.
Bài viết cũng như vân tay của một người. Từ vân tay công an xác
định được người có vân tay đó thì từ bài viết, công an cũng dễ dàng xác định
được người viết bài đó.
Lặp đi lặp lại đòi hỏi
bác phải kí xác nhận bài viết là của bác thì cũng lặp đi lặp lại lí do không
kí: Không phải chỉ riêng tôi phải kí mà hàng trăm, hàng ngàn người khác cũng đã
và sẽ bị các anh yêu cầu kí vào bài viết. Số giấy mực in lại bài viết của một
người thì không đáng bao nhiêu nhưng bài viết của hàng trăm, hàng ngàn người
thì tiền giấy mực không phải là nhỏ.
Dân mình còn nghèo lắm. Tiền giấy các anh
in bài là tiền thuế của những người dân nghèo chạy ăn từng bữa đấy. Chúng tôi
cứ kí hết lần này đến lần khác là các anh cứ vô tư tiêu phí những đồng tiền
thuế của dân nghèo vào những việc không đáng tiêu. Tôi không thể hình sự hóa bài viết của tôi. Tôi không thể suốt đời cứ bị gọi lên gặp các anh để kí xác nhận
bài viết.
Nếu bác không kí thì
không có gì xác nhận có buổi làm việc hôm nay. Ông Sang nhắc đi nhắc lại câu đó
rồi hứa: Bác cứ kí đi. Đây là lần kí cuối cùng. Sẽ không có lần thứ ba nữa. Tôi
bảo: Lòng tin của người dân vào công an bây giờ xuống rất thấp. Chả có gì bảo
đảm rằng tôi không còn bị các anh mời lên kí xác nhận bài viết nữa. Chúng tôi
sẽ ghi vào biên bản làm việc điều đó. Biên bản các anh đưa vào hồ sơ rồi cất
trong tủ sắt. Tôi đâu có bằng chứng về lời hứa của các anh. Tôi đề nghị các anh
ghi điều đó ra giấy để tôi giữ lời hứa của các anh bằng giấy trắng mực đen.
Ông Sang im lặng rồi đi ra ngoài. Trong quá trình làm việc, ông Sang mấy lần ra khỏi phòng gọi điện thoại. Lần này ông Sang ra ngoài khá lâu. Trở vào phòng, ông Sang ngồi lặng lẽ, dáng chờ đợi. Gần nửa tiếng im lặng chờ đợi, người thứ ba mới xuất hiện. Lời giới thiệu của ông Sang về nhân vật mới chỉ vẻn vẹn có cái tên, anh Toàn. Mặt trắng, sáng sủa. Chân râu xanh rì quanh miệng. Đầu hói khoảng ba mươi phần trăm. Dáng nho nhã của con người bureau. Nhìn ông Tuấn thấy sự hăng hái, xông xáo, thấy cả sự tất bật, băm bổ của con người hành động thì nhìn ông Toàn nhận ra sự lạnh lùng, kín đáo của con người toan tính, nhận ra cả sự tư tin của kẻ rất có ý thức về sức mạnh đang có trong tay. Cái tự tin “công an là pháp luật, pháp luật là công an” của mọi công an nhà nước cộng sản Việt Nam.
Lời đầu tiên ông Toàn
nói ngay những hiểu biết của ông về tôi, tuy những hiểu biết đó chỉ là bề
ngoài, không đúng thực chất và không ăn nhập với đề tài buổi làm việc: Bác còn
quá khỏe, còn đi khắp nơi. Bác có hai nhà cho thuê. Lương hưu lại cao . . . Ông
Toàn còn kể ra cả căn hộ tôi đang ở là căn hộ penthouse, căn hộ thông tầng. Tôi
nói: Những điều anh Toàn nói tuy có cái không đúng như tôi làm gì có hai nhà
cho thuê nhưng tôi không cần diễn giải vì đây là lĩnh vực riêng tư của đời sống
cá nhân được pháp luật bảo đảm bí mật, không bàn ở đây.
Ông Toàn hỏi tôi về Văn
Đoàn Độc Lập. Văn Đoàn đã có hoạt động gì? Các tổ chức quốc tế có công nhận
Văn Đoàn, có ủng hộ sự ra đời của Văn Đoàn không? Trang web của Văn Đoàn do ai
làm? Bác đã viết bài cho trang web này chưa? Tham gia Văn Đoàn như thế nào? Tôi
bảo: Anh Toàn cũng biết thời nước ta còn bị Pháp đô hộ, còn chưa có độc lập thế
mà Tự Lực Văn Đoàn còn được ra đời và hoạt động suốt mười năm, từ năm 1932, để
lại một nét son, một dấu ấn sâu đậm mãi mãi trong lịch sử văn học nước nhà.
Bây
giờ nước ta đã có độc lập, có Hiến pháp bảo đảm quyền
lập hội cho công dân thì các nhà văn thành lập Văn Đoàn Độc Lập cũng là bình
thường. Một xã hội dân sự phải có các tổ chức xã hội thực sự của người dân, do
người dân thành lập và duy trì hoạt động.
Ông Toàn cắt lời tôi
rằng trên thế giới không nước nào có xã hội dân sự cả. Tôi rất ngạc nhiên về
nhận thức xã hội dân sự của ông Toàn. Tôi nói chỉ có mấy nước cộng sản là không
có xã hội dân sự thôi. Phần lớn các nước trên thế giới đều là xã hội dân sự.
Văn Đoàn Độc Lập chưa chính thức ra đời. Mới có 61 người tập hợp nhau lại thành
ban vận động rồi mới tiến tới thành lập Văn Đoàn. Tôi chỉ là một trong 61 người
đó. Anh Toàn theo dõi các trang mạng thì cũng biết các hãng thông tấn nổi tiếng
thế giới như BBC, RFA đều đã có bài phỏng vấn, đưa tin về Văn Đoàn. Đó là sự
ủng hộ, chào đón của họ với Văn Đoàn. Chỉ là thành viên, không có chức trách gì
ở Văn Đoàn nên tôi không biết ai làm trang web của Văn Đoàn và tôi cũng chưa có
bài đăng ở đó. Những người gia nhập Văn Đoàn đều là tự nguyện ghi tên xin tham
gia qua email.
Ông Sang hỏi email của
tôi nhưng tôi bảo email thuộc bí mật thư tín cá nhân nên tôi không thể tùy tiện
cung cấp cho mọi người. Ông Toàn giơ lên tờ giấy A4 in lại từ Facebook của tôi
bài “Hoa của Bauxite Việt Nam, Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ
viếng thầy Đinh Đăng Định” và hỏi: Bác có quan hệ với Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ
chứ? Những ngày lễ của họ, họ vẫn mời những người như bác đến dự lễ mà.
Tôi bảo: Thầy Đinh Đăng
Định chỉ vì phản đối dự án khai thác bô xít Tây Nguyên mà bị tù. Thày bị bệnh
hiểm nghèo, gia đình xin cho thầy ra tù để chữa bệnh nhưng công an không cho.
Đến lúc bệnh của thầy không còn chạy chữa được nữa, cái chết đã cận kề, công an
mới trả thầy về gia đình để rũ bỏ trách nhiệm tang lễ cho thầy.
Thầy chết, những công an đã gần gũi thầy suốt nhiều năm không ai
đến viếng thầy nhưng Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ xa lạ chưa hề gặp thầy đã gửi hoa
viếng thầy. Hoa của Bauxit Việt Nam, hoa của Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự mang tấm
lòng của cả nước đến với thầy. Hoa của Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ mang tấm lòng
của loài người dành cho một con người. Ba giá hoa đẹp đó gây cho tôi sự xúc
động mạnh mẽ nên tôi đã chụp ảnh đưa lên fb của tôi.
Lại trở về với những bài
viết của tôi, ông Sang: Dạo này bác viết nhiều không? Bác có nhớ viết bao nhiêu
bài không? Trong đầu thoáng xuất hiện một câu hài hước, tôi nhìn ông Toàn và có
lẽ trên gương mặt tôi có nụ cười thấp thoáng khi tôi nói: Tôi viết bài nào thì
các anh đều biết cả. Có các anh nhớ hộ, thống kê hộ nên tôi cũng chẳng cần nhớ
tôi đã viết bao nhiêu bài. Ông Toàn nói: Lần trước bác kí là năm 2012. Hơn một
năm bác mới lại kí nhận bài viết của bác, đâu có nhiều. Bỗng ông Toàn căng giọng:
Bác không kí thì còn làm việc dài. Hôm nay không xong thì ngày mai, ngày mốt.
Tôi bình thản: Tôi sẵn
sàng ngồi với các anh. Nhưng các anh không có quyền làm điều đó. Công chức nhà
nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Ông Toàn: Bác sợ mới không dám
kí nhận bài viết của mình.
Tôi biết ông Toàn sử
dụng ngón nghề điều tra, đánh vào tâm lí tự ái cá nhân nhưng tôi vẫn thấy như
bị xúc phạm liền nói to: Anh nói thế là xúc phạm tôi. Tôi chẳng có gì sai để
phải sợ các anh. Ông Toàn vẫn không thôi ngón đòn tâm lí: Tôi biết trong lòng
bác đang sợ. Kiên trì lí lẽ của mình, tôi nói ngắn gọn: Tôi không kí để tự hình
sự hóa bài viết của mình. Tôi không kí để cứ phải kí suốt đời. Ông Toàn liền
lớn tiếng như quát: Bác còn viết thì còn phải kí! Bác còn viết thì còn phải kí!
Sự tự tin của ông Toàn đó! Công an là pháp luật, pháp luật là công an đó!
Không có điều luật nào cho phép công an được mời công dân đến trụ sở
công an vì những bài viết hợp pháp. Không có điều luật nào buộc công dân phải
kí xác nhận bài viết hợp pháp với công an.
Nhưng ông Toàn vẫn nói chắc nịch như công bố một điều luật của công an: Bác còn
viết thì còn phải kí!
Tôi lại nhớ đến câu nói của
ông Sang mới ít phút trước: Đây là lần kí cuối cùng, không có lần kí thứ ba.
Con người công dân của ông Sang đó! Báccòn viết thì còn phải kí! Con người công
cụ của ông Toàn đó! Kí – Không kí. Đã nói hết lí lẽ với nhau vẫn không chấp
nhận đề xuất của nhau. Chẳng còn gì để nói, tất cả đều ngồi im lặng. Chợt ông
Toàn đưa ra lối thoát: Bác không kí vào từng bài thì kí vào tờ giấy ghi rằng từ
ngày 10 tháng tư năm 2014 trở về trước, những bài đứng tên Phạm Đình Trọng là
của bác. Chúng tôi viết rồi đưa bác kí hoặc bác tự viết tờ giấy đó cũng được.
Suy nghĩ giây lát, tôi
chấp nhận giải pháp này. Tôi xin tờ giấy A4 và tự viết. Ông Sang nhắc tôi ghi
tiêu đề Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng tôi không chấp nhận. Với tôi,
đây không phải là văn bản pháp luật. Tôi viết ngắn gọn: XÁC NHẬN / Những bài
viết trên mạng internet kí tên Phạm Đình Trọngtừ ngày 10. 4. 2014 trở về trước
là của tôi, Phạm Đình Trọng / Phước Kiển ngày 10. 4.2014 / Kí tên.
Tôi đưa tờ giấy vừa viết
cho ông Toàn. ÔngToàn đề nghị tôi thay chữ “kí tên” trong câu “Những bài viết
trên mạng internet kí tên…” bằng chữ “đứng tên”. Lại phải lấy tờ giấy khác viết
lại.
Ông Sang ra ngoài mời cô
nhân viên hành chính Ủy ban Nhân dân xã Phước Kiển và ông hàng xóm cạnh trụ sở
công an xã Phước Kiển vào làm chứng việc tôi viết giấy xác nhận. Lại mời cô
công an xã Phước Kiển vào viết văn bản để hai người làm chứng kí.
Trong khi chờ ông Sang
đi mời mấy người vào viết giấy làm chứng, tôi hỏi ông Tuấn: Anh Tuấn có biết
hình ảnh của anh được đưa lên tất cả các trang mạng tiếng Việt khắp thế giới không?
Ông Tuấn im lặng. Mặt ông Tuấn vốn đã tối như càng tối hơn. Ông Toàn nói: Sự
nổi tiếng ấy cũng là do các bác. Tôi bảo: Tôi có đến viếng đám tang anh Lê Hiếu
Đằng nhưng lúc anh Tuấn cướp băng tang, tôi không ở đó. Không biết ai chụp được
bức ảnh giây phút anh Tuấn làm việc đó và đưa lên mạng.
Là người phải có
cái đức. Cái đức để sống ở đời và cái đức để lại cho con cháu, anh Tuấn
nhỉ.
Giấy xác nhận rồi giấy
làm chứng xác nhận đã xong. Đến biên bản làm việc cũng mất khá nhiều thời gian
vì Kí – Không kí. Cuối cùng tôi chấp nhận xóa chữ “Đương sự” viết thay vào chữ
“Người làm việc” ở cuối biên bản và ghi: Như lúc đầu tôi đã nói đây chỉ là buổi
gặp gỡ trao đổi để hiểu nhau nên tôi không kí vào bất kì biên bản nào. Tôi
không đọc biên bản này.
LỜI CUỐI Đến nay tôi vẫn
chưa lí giải được vì sao công an cần một chữ kí của tôi đến vậy. Vì thế tôi vẫn
chưa xác định được buổi làm việc của tôi với công an hôm 10.4.2014 là thất bại
hay là một kết quả chấp nhận được. Chỉ nhận ra rất rõ cảm giác mệt mỏi.
Mệt mỏi về thể xác song ý chí của tôi không những không hề lay
chuyển mà còn giúp tôi từng trải hơn, vững vàng hơn.
Những cuộc làm việc như
vậy thực sự là cuộc công an khủng bố tinh thần, nhục hình tinh thần đối với
công dân, chà đạp lên quyền con người, quyền công dân của người dân. Những cuộc làm việc như vậy cũng không khác bao nhiêu với việc
năm công an ở Phú Yên dùng gậy cao su đánh chết công dân Ngô Thanh Kiều. Nhân
danh pháp luật, công an Phú Yên bắt anh Kiều trái pháp luật rồi cứ cái đà lạm
quyền, lộng hành, mất tính người, năm công an Phú Yên thay nhau đánh anh Kiều
nát nhừ thân thể đến chết. Nhân danh pháp luật, công an viết giấy mời trái pháp
luật, hình sự hóa đời sống dân sự.
Những cuộc làm việc theo
giấy mời của công an với công dân là những trận nhục hình đối với công dân nhằm
giết chết con người công dân, con người xã hội, giết chết con người trách nhiệm
với đất nước, với dân tộc, với đồng loại, để người dân chỉ còn được sống bằng con
người sinh vật ích kỉ, chỉ biết có miếng ăn và chỉ mong được yên thân, để người
dân chỉ còn được sống bằng con người thần dân, phục tùng, cam chịu như một bầy
cừu.
Sự lộng hành của công an
bằng gậy cao su để lại bằng chứng là cái chết của anh Ngô Thanh Kiều ở Phú Yên,
cái chết của ông Trịnh Xuân Tùng ở Hà Nội, cái chết của anh Nguyễn Văn Khương ở
Bắc Giang, cái chết của em học sinh Tu Ngọc Thạch ở Khánh Hòa và cái chết trong
đồn công an của hàng trăm người dân lương thiện khác. Những cái chết đó khắc
ghi trong lòng người dân Việt Nam tội ác của công cụ bạo lực chuyên chính vô
sản. Sự lộng hành của công an bằng việc mời trái pháp luật công dân đến làm
việc để dùng quyền uy của công cụ bạo lực nhà nước đánh đòn cân não vào tinh
thần, ý chí con người tuy không để lại dấu vết trên thân thể nhưng hiểm độc và
nguy hại hơn nhiều lần sự lộng hành của cơ bắp.
Còn gì hiểm độc và nguy hại bằng giết chết con người công dân của
một dân tộc.
Sự lộng hành đó cần được ghi nhận lại trung thực bằng chữ nghĩa khắc
vào thời gian, khắc vào lịch sử về một loại tội ác của công cụ bạo lực chuyên
chính vô sản chỉ có ở nhà nước cộng sản.
Viết xong đêm 11. 4.
2014. Đọc lại và chỉnh sửa đêm 14. 4. 2014
Phạm Đình Trọng
Note: bài có tên gốc là
VÌ SAO CÔNG AN CẦN MỘT CHỮ KÍ ĐẾN VẬY
(TƯỜNG TRÌNH BUỔI LÀM VIỆC VỚI AN NINH)
(TƯỜNG TRÌNH BUỔI LÀM VIỆC VỚI AN NINH)
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền