Nguyễn Hưng Quốc - Lại bàn chuyện dân chủ
Thứ Tư, ngày 07 tháng 1
năm 2015
Tôi đã viết khá
nhiều bài về dân chủ nhưng vẫn thấy chưa đủ.
Có ba lý do chính: Thứ nhất, đây
là một đề tài phức tạp với những cách nhìn và cách hiểu khác nhau tuỳ từng văn
hoá, thậm chí, từng học giả. Thứ hai, vì tính chất phức tạp ấy, rất nhiều người
hiểu nhầm, hơn nữa, dưới ảnh hưởng của hệ thống tuyên truyền của nhà nước, lẫn
lộn giữa độc tài và dân chủ, tưởng độc tài là dân chủ. Thứ ba, đó cũng là một
trong những khái niệm bị lợi dụng và lạm dụng nhiều nhất trong sinh hoạt chính
trị thế giới: hầu như tất cả các quốc gia độc tài đều tự nhận là dân chủ, thậm
chí, nói theo lời bà Nguyễn Thị Doan, phó chủ tịch nước Việt Nam, là “dân chủ
gấp vạn lần hơn” các nền dân chủ lâu đời ở Tây phương. Trước tình hình ấy, việc
khẳng định lại những nội dung căn bản của khái niệm dân chủ, theo tôi, rất cần
thiết.
Nói một cách tóm tắt, một
nền dân chủ bao gồm bốn đặc điểm chính:
Thứ nhất, một hệ thống
chính trị được bầu một cách tự do, công bằng và có tính chất nhiệm kỳ. Hiện
nay, hầu hết các chính phủ trên thế giới đều tổ chức bầu cử. Nhưng có rất nhiều
chính phủ dân cử vẫn không phải là dân chủ. Lý do chính là các cuộc bầu cử ấy
được tiến hành một cách thiếu tự do và không công bằng. Nó hạn chế quyền ứng cử
và tranh cử của nhân dân. Nó loại trừ khả năng cạnh tranh của các phe đối lập.
Hơn nữa, nó không có tính chất khả kiểm (accountability), nghĩa là không minh
bạch và không chịu sự kiểm soát của các cơ quan độc lập, kể cả các cơ quan quốc
tế. Chính vì vậy mới có khái niệm độc tài tuyển cử (electoral dictatorship).
Thực chất của các cuộc
bầu cử là, một mặt, tạo cơ hội cho dân chúng lựa chọn những người lãnh đạo đất
nước; mặt khác, để các đảng phái hay phe nhóm được quyền tự do cạnh tranh với
nhau. Adam Przeworski có một định nghĩa về dân chủ nổi tiếng: “Dân chủ là một
hệ thống ở đó các đảng phái thất cử” (Democray is a system in which parties
lose elections). Định nghĩa có vẻ ngược ngạo ấy, theo Alan Siaroff, bao hàm ba
ý chính: Một, có ai khác (ngoài đảng) bầu cử; hai, đảng đang cầm quyền sẽ trao
lại quyền bính; và ba, bầu cử là cách thức duy nhất để truất phế một chính phủ.
(1)
Đặc điểm thứ hai của dân
chủ là sự tham gia tích cực của mọi người, với tư cách công dân, trong các sinh
hoạt chính trị và dân sự trong nước. Democracy, trong tiếng Anh cũng như trong
hầu hết các ngôn ngữ Âu châu, có gốc gác từ tiếng Hy Lạp, trong đó “demo/demos”
là dân chúng và “cracy/kratos” là quyền lực hay sức mạnh. Từ nguyên của nó, như
vậy, cũng giống chữ “dân chủ” tại Việt Nam, đề cao vai trò của nhân dân. Trong
các chế độ dân chủ đại biểu (representative democracy), dân chúng chỉ lãnh đạo
thông qua trung gian của những người do mình bầu ra.
Nhưng vai trò của nhân dân
không phải chỉ thể hiện ở các thùng phiếu, trong các cuộc bầu cử, mà còn ở hai
khía cạnh khác: một, họ có quyền kiểm tra việc thực thi các lời hứa hẹn khi
tranh cử; và hai, họ có quyền bày tỏ thái độ trước các chính sách họ nghĩ là
không đúng hoặc không thích hợp. Khía cạnh thứ nhất đòi hỏi tính chất minh bạch
và khả kiểm của chính phủ. Khía cạnh thứ hai dẫn đến việc hình thành các quyền
căn bản như quyền biểu tình, quyền hội họp và quyền tự do ngôn luận.
Đặc điểm thứ ba của dân
chủ là bảo vệ quyền làm người cho mọi công dân. Quyền làm người được xem là
quyền bất khả xâm phạm. Đó là những quyền được quốc tế công nhận. Nó bao gồm
những quyền chính như quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do tư tưởng và tự do
ngôn luận. Cái gọi là quyền tự do ngôn luận ấy bao gồm các quyền tìm kiếm thông
tin, diễn dịch thông tin và phát tán thông tin dưới các hình thức khác nhau, từ
nói đến viết, từ trên giấy in đến trên không gian ảo của internet.
Bốn, theo tinh thần
thượng tôn pháp luật (rule of law), trong đó, luật pháp được áp dụng một cách
bình đẳng với tất cả mọi người. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới,
độc tài hay dân chủ, cũng đều có hiến pháp và luật pháp, ở đó, tất cả các điều
khoản đều rất hay ho.
Ở phương diện này, sự khác biệt nằm ở hai yếu tố chính:
Một, việc diễn dịch các điều luật ở mỗi nơi mỗi khác; và hai, về phạm vi, trên
nguyên tắc, ở các quốc gia dân chủ, luật pháp bao trùm hết mọi người, từ người
cai trị đến những người bị trị. Không có ngoại lệ. Ở các độc tài, ngược lại,
một mặt, người ta tự do diễn dịch các điều luật theo ý họ muốn; và mặt khác,
nhà cầm quyền tự đặt mình ở vị trí ở ngoài hoặc cao hơn luật.
Ở cả bốn tiêu chuẩn trên,
Việt Nam có dân chủ hay không? Câu trả lời rất dễ và cũng rất rõ: Không.
Dựa trên tiêu chuẩn bầu
cử, có thể gọi Việt Nam là một kiểu độc tài tuyển cử. Ở Việt Nam, dân chúng chỉ
được bầu cử Quốc Hội, nhưng ở đây lại có bốn yếu tố cần được ghi nhận: Một, chỉ
có những người được đảng và chính quyền chọn lọc và giới thiệu mới được ứng cử;
hai, không thực sự có tranh cử, ở đó, các ứng cử viên công khai bày tỏ hoặc
tranh luận về đường lối và chính sách của họ; ba, công việc kiểm phiếu hoàn
toàn nằm trong tay nhà cầm quyền; và bốn, Quốc Hội ở Việt Nam chỉ có chức năng
làm cảnh, trên thực tế, họ không có quyền hạn gì cả. Với bốn yếu tố ấy, những
cái gọi là bầu cử tại Việt Nam cũng như dưới mọi chế độ độc tài khác, chỉ là sự
vờ vĩnh, nhằm đánh lừa những người nhẹ dạ. Những người có thực quyền thì lại
được quyết định trong nội bộ đảng Cộng sản, cụ thể hơn, giữa các thành viên
trong Ban Chấp hành Trung ương với nhau.
Một số người có thể sẽ
nguỵ biện: Thì trên thế giới cũng có nhiều quốc gia được xem là dân chủ (như
Anh, Úc, Canada và Ấn Độ) nhưng những người lãnh đạo đều do đảng cầm quyền bầu
ra. Sự khác biệt ở đây là: Ở các nước dân chủ theo theo Đại nghị chế, hoặc cụ
thể hơn, theo hệ thống Westminster của Anh, dân chúng bầu cho đảng; đảng nào
thắng cử thì lên cầm quyền, người lãnh đạo đảng ấy sẽ lên làm thủ tướng và
thành lập nội các; ở Việt Nam thì không. Ở Việt Nam, đảng Cộng sản giành cái
quyền cai trị ấy mà không thông qua bất cứ một cuộc bầu cử hay trưng cầu dân ý
nào cả.
Về phương diện tham gia
vào các sinh hoạt chính trị và dân sự, Việt Nam cũng không hề có dân chủ. Dân
chúng hoàn toàn bị cấm đoán tham gia vào bất cứ sinh hoạt chính trị nằm ngoài
sự kiểm soát của nhà cầm quyền. Ngay cả cái quyền đơn giản và căn bản nhất như
quyền biểu tình, họ cũng không có. Các hình thức xã hội dân sự cũng bị cấm đoán
tại Việt Nam trừ các tổ chức do chính quyền quản lý.
Về phương diện nhân quyền và pháp quyền,
có lẽ chúng ta không cần bình luận nhiều bởi vấn đề đã quá rõ: Đây là hai lãnh
vực Việt Nam thường xuyên bị các tổ chức quốc tế lên án. Liên quan đến tòa án,
ở Việt Nam, có mấy hiện tượng nổi bật: Một, người ta chỉ bắt bớ các tội phạm
thường dân hơn là đảng viên hay cán bộ; hai, trong thành phần cán bộ, người ta
chỉ tập trung bắt bớ các sai phạm của những đảng viên cấp thấp, chủ yếu là
phường xã hơn là cấp cao; và ba, đối với dân chúng hay cán bộ cấp thấp, người
ta mang ra xét xử công khai, còn các sai phạm của thành phần cán bộ cấp cao thì
được xử lý trong nội bộ với những mức án thường chỉ có tính chất tượng trưng.
Tất cả đều cho thấy một điều: Đảng có hệ thống khen thưởng riêng, hoàn toàn nằm
ngoài hệ thống luật pháp của quốc gia. Đảng đứng trên luật pháp.
Ở bất cứ chế độ nào, khi có kẻ đứng trên
luật pháp, chế độ ấy nhất định không phải là dân chủ.
Chú thích:1. Dẫn theo Alan
Siaroff (2013), Comparing Political Regimes, Toronto: University of Toronto
Press, tr. 79.
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền