Nguyễn Văn Chưởng bị tòa
án VN kết án tử hình trái pháp luật
·
·
·
Tin liên hệ
26.12.2014
Cũng như bất cứ chế độ độc tài nào, chính quyền cộng sản Việt Nam
tồn tại dựa trên đàn áp các quyền con người. Điều này có nghĩa oan, sai mà
chính quyền gây ra cho người dân là chuyện đương nhiên, kể sao cho xiết. Vấn đề
ở chỗ những người có lương tri không thể chỉ bằng lòng với việc lên án sự tàn
bạo của chế độ cộng sản mà cần phải ra tay đẩy lùi để đi tới triệt tiêu nó, mỗi
người theo cách của mình. Chỉ còn một tuần nữa thôi, khi cả thế giới hồ hởi đón
Giáng Sinh và Năm mới 2015 trong đầm ấm của gia đình xum họp thì ông Nguyễn
Trường Chinh và bà Nguyễn Thị Bích - bố mẹ của tử tù Nguyễn Văn Chưởng - rất có
thể sẽ buốt giá giữa lòng Hà Nội mà đón nhận hung tin vì họ đã được các cơ quan
tư pháp báo là Chưởng sẽ bị hành quyết vào cuối tháng 12 này, cho dù họ đã gào
oan cho đứa con của họ bằng máu của mình trong đơn gửi Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang, cho dù phản đối bản án tử hình này đã dậy sóng từ trong nước ra ngoài
nước...
Tối ngày 14/7/2007, một thiếu tá công an tên Sinh bị chém chết tại
Hải Phòng. Công an sau đó đã bắt Nguyễn Văn Chưởng và hai người khác tên Hoàng
và Trung vì cho rằng những người này là thủ phạm của vụ giết viên công an này.
Thế nhưng đã có một số người xác nhận rằng vào tối xảy ra án mạng Chưởng đang
có mặt tại quê nhà ở Hải Dương, cách Hải Phòng 40 km. Mặc dầu vậy, cả tòa án sơ
thẩm lẫn tòa án phúc thẩm đều tuyên tử hình đối với Chưởng với tư cách là chủ
mưu vụ giết người.
Quan điểm của tôi là mọi tội ác phải bị trừng trị thích đáng và
tôi có lời chia buồn với thân nhân của công an Sinh. Tuy nhiên kẻ thủ ác chỉ có
thể được xác đinh trên cơ sở luật pháp. Nói cách khác, kết tội ai đó không theo
pháp luật chính là tội ác. Tôi khẳng định tòa án Việt Nam đã tuyên tử hình đối
với Nguyễn Văn Chưởng trái pháp luật, cụ thể là trái Hiến pháp và Bộ Luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) với chí ít năm căn cứ sau đây.
Thứ nhất, các cơ quan tiến hành tố tụng đã sử dụng lời nhận tội
của Nguyễn Văn Chưởng được thu thập trong quá trình Chưởng bị công an điều tra
tra tấn để làm chứng cứ kết tội.
Điều 64 BLTTHS quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu
thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”.
Điều 6 BLTTHS quy định: “Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục
hình”. Đó cũng là tinh thần của Điều 71 Hiến Pháp 1992 (Nghiêm cấm mọi hình
thức truy bức, nhục hình công dân) và Điều 20 Hiến Pháp 2013 hiện hành (Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe).
Như vậy, cho dù nghi can không nhận tội nhưng với những chứng cứ
được thu thập một cách khách quan, theo đúng quy định của BLTTHS các cơ quan
tiến hành tố tụng có quyền xác định nghi can phạm tội. Ngược lại những lời khai
hay nhận tội của nghi can hoặc của những người khác được thu thập trong khi
những người này bị tra tấn (nhục hình) hoàn toàn không có giá trị pháp lý đồng
nghĩa không thể được sử dụng làm chứng cứ.
Tại cả phiên tòa sơ thẩm lẫn phúc thẩm, Chưởng và hai bị can khác
đều khai họ đã bị công an điều tra ép cung, dụ cung, đặc biệt đánh đập gây
thương tích và họ đã phải nhận tội do chịu đau không nổi. Để chứng minh bản
thân đã bị tra tấn, Chưởng khai là giám thị trại giam Trần Phú đã lập Biên bản
xác định thương tích trên người Chưởng với sự chứng kiến của y sĩ trại giam.
Hoàng khai bị công an điều tra đốt bộ phận sinh dục. Vụ Nguyễn Thanh Chấn bị
công an tra tấn đến mức phải nhận tội giết người mà bản thân không là thủ phạm
để rồi sau đó bị kết án tử hình vẫn sờ sờ kia!
Do đó việc các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng những lời khai,
lời nhận tội của Chưởng và của các bị can khác để kết tội những người này là
hoàn toàn trái với quy định về thu thập chứng cứ của BLHS, đồng nghĩa những lời
khai, nhận tội này không có giá trị pháp lý và vì vậy không thể được sử dụng
làm chứng cứ.
Thứ hai, Tòa án xác định Nguyễn Văn Chưởng đã nhận tội trong khi
Chưởng đã phản cung.
Tòa án đã “căn cứ vào sự phù hợp giữa lời khai của các bị cáo với
lời khai người làm chứng, phù hợp với vật chứng” để kết tội Nguyễn Văn Chưởng.
Tuy nhiên nhận định này của Tòa án là hoàn toàn mang tính áp đặt bởi lẽ lời
nhận tội của Chưởng thu thập trong quá trình Chưởng bị tra tấn không phải là
chứng cứ như trên vừa chứng minh. Hơn thế nữa, tại tòa Chưởng đã phản cung,
khẳng định mình không có hành vi phạm tội, điều này có nghĩa lời nhận tội trước
đó của Chưởng đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn.
Thứ ba, Tòa án đã không triệu tập những người xác nhận ngoại phạm
cho Nguyễn Văn Chưởng đến tham dự phiên tòa.
Điều 10 BLTTHS quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà
án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng
cứ xác định vô tội”.
Khoản 1 Điều 55 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định: “Người nào biết
được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm
chứng”.
Điều 65 BLTTHS quy định: “1/ Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Toà án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để
hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án; 2/ Những người
tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài
liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án”.
Như vậy, người làm chứng có thể là người làm chứng buộc tội và
người làm chứng gỡ tội. Do đó việc tòa án đã không triệu tập Trần Quang Tuất,
Lục Thị Nhiễu, Vũ Thị Mến, Trịnh Xuân Trường, Phạm Văn Khương, Trịnh Xuân Rình
là những người xác nhận sự ngoại phạm của Chưởng tham gia tố tụng là hoàn toàn
trái các quy định pháp luật nói trên.
Hẳn là để biện minh cho việc không triệu tập những người làm chứng
gỡ tội cho Chưởng nên tòa sơ thẩm đã liệt luôn những người này vào hàng “tội
phạm” khi tuyên bố “Đối với Trần Quang Tuất, Lục Thị Nhiễu, Vũ Thị Mến và Trịnh
Xuân Trường, có hành vi cùng Nguyễn Trọng Đoàn viết giấy xác nhận để cung cấp
tài liệu sai sự thật cho bị cáo Chưởng ngoại phạm, Cơ quan điều tra tiếp tục
điều tra làm rõ xử lý sau”. Thế nhưng quan điểm này của tòa án là phản pháp
luật vì tòa án không có quyền xác định việc cung cấp tài liệu chứng minh ngoại
phạm của Chưởng là “cung cấp tài liệu sai sự thật” một khi hành vi này không
được làm rõ tại phiên tòa đồng nghĩa sự có mặt tại phiên tòa của những người
cung cấp tài liệu nói trên là bắt buộc. Đó là chưa nói tới việc bị can, bị cáo
hay tù nhân đi chăng nữa thì cũng đều có quyền ra tòa làm chứng.
Cũng cần nói thêm rằng việc các cơ quan tiến hành tố tụng bắt
giam, truy tố và xử tù Nguyễn Trọng Đoàn là em ruột của Chưởng về hành vi “che
dấu tội phạm” của Chưởng trong cùng vụ án với Chưởng là hoàn toàn trái pháp
luật. Thực vậy, Điều 9 BLTTHS quy định: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có
bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”, điều này có nghĩa Đoàn chỉ
có thể bị truy cứu về “Tội che dấu tội phạm” sau khi Chưởng đã bị tòa phúc thẩm
xác định là có tội. Để nói việc truy cứu hình sự Đoàn không nằm ngoài ý đồ của
công an đe dọa những người đã xác nhận ngoại phạm cho Chưởng để họ rút lời khai
có lợi này cho Chưởng.
Tóm lại, việc tòa án loại bỏ những người xác nhận ngoại phạm cho
Chưởng ra khỏi tố tụng chỉ có thể là hành vi khép Chưởng vào tội cho bằng được.
Thứ tư, công an điều tra đã không cho luật sư thực hiện việc bào
chữa Nguyễn Văn Chưởng đúng thời hạn như luật định.
Khoản 4 Điều 56 BLTTHS quy định: “Trong thời hạn ba ngày, kể từ
ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc
bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy chứng
nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng
nhận thì phải nêu rõ lý do”. Thế nhưng các luật sư bào chữa cho Chưởng là luật
sư Nguyễn Đức Quang, luật sư Hà Thị Thanh, luật sư Chu Văn Chiến, luật sư Phạm
Hoàng Việt, luật sư Hoàng Văn Quánh đã không được công an điều tra cấp giấy bào
chữa trong thời hạn 3 ngày mà phải ít nhất hai tháng sau mới được cấp. Rõ ràng
việc công an điều tra cấp giấy bào chữa cho luật sư của Chưởng quá chậm trễ như
vậy chỉ có thể là nhằm kéo dài thời gian tra tấn Chưởng để không những lấy được
lời “nhận tội” của Chưởng mà còn triệt tiêu ý muốn phản cung hay kêu oan của
Chưởng khi gặp luật sư.
Thứ năm, các cơ quan tiến hành tố tụng cố ý để lọt tội phạm
Điều 1 BLTTHS quy định: “Không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội”. Điều 10 BLTTHS còn quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và
chứng cứ xác định vô tội”.
Do đó việc các cơ quan tiến hành tố tụng đã cố ý không làm rõ đôi
dép cỡ 42 và một khẩu trang bỏ lại ở hiện trường là của ai chẳng những đã
“không xác định sự thật một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ” mà còn là
hành vi “cố ý để lọt tội phạm” hay cố ý loại bỏ những chứng cứ về khả năng vô
tội của Nguyễn Văn Chưởng.
Vấn đề còn lại là cần tìm hiểu tại sao tư pháp Việt Nam lại bất
chấp pháp luật, tức quyết tâm tử hình Nguyễn Văn Chưởng đến như vậy.
Báo Đời sống và Pháp luật số ra ngày 05-11-2014 trong bài “Tướng Đỗ Hữu Ka kể chuyện phá án và ngày
ăn một gói mỳ” ghi lại lời kể của người đứng đầu cơ quan điều
tra vụ sát hại thiếu tá công an Sinh cho biết: “Nhìn lại vụ án trên, Thiếu
tướng Đỗ Hữu Ka tâm sự: ‘Sau ngày xảy ra vụ án, tôi mất ăn mất ngủ, có ngày chỉ
ăn một gói mì tôm. Cả tháng trời, tôi nhốt mình trong phòng làm việc, không về
nhà. Đó không còn là
ý thức điều tra tội phạm, mà là tình anh em. Nếu không tìm ra
hung thủ thì đó là một món nợ với chính cấp dưới của mình’”! Thế là quá rõ:
mong muốn trả thù cho “người anh em” cùng sắc phục công an đã khiến tướng công
an Ka đạp lên pháp luật về điều tra tội phạm để sớm tìm và buộc tội một ai đó,
mà trong trường hợp này là Chưởng, làm vật tế “người anh em”!
Nếu như tướng công an Ka vì “thù nhà” mà dùng các thủ đoạn bất hợp
pháp như tra tấn để khép tội Nguyễn Văn Chưởng cho bằng được thì tại sao viện
kiểm sát cũng như tòa án cũng bất chấp pháp luật như vậy? Hỏi tức trả lời: hai
cơ quan tư pháp này nói riêng, chính quyền Việt Nam nói chung, đều chịu “sự
lãnh đạo” của Đảng cộng sản Việt Nam trong khi đảng này cưng công an hơn thảy
bởi công an “chỉ biết còn Đảng còn mình”!
Bất luận thế nào thì “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người
được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” như Hiến
pháp Việt Nam hiện hành quy định tại Điều 19. Vì vậy, bản án tử hình trái
pháp luật đối với Nguyễn Văn Chưởng phải bị hủy bỏ ngay lập tức để điều tra lại
vụ án.
Tôi tin rằng Công Lý và Quyền Con Người sẽ chiến thắng, ông Chinh
và bà Bích sẽ còn được gặp Nguyễn Văn Chưởng của ông bà sau giao ban sắp tới
giữa năm cũ và năm mới.
Đảng CSVN Làm sao
bảo vệ nổi Chủ nghĩa Mác Lê đã
như cái xác
chết thối rữa?
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền