Một người dân chết bất thường sau
khi ở trụ sở công an
THE
KIM NHUNG SHOW: Trò chuyện cùng mẹ nhà tranh đấu Đỗ Thị Minh Hạnh
Bà
Đoàn Thị Lý (vợ ông Toàn) kể lại sự việc với phóng viên.
Dân Việt - Trong khi công an cho gia đình biết nạn nhân bị chết do sốc thuốc (sốc ma túy) thì gia đình bức xúc cho rằng cái chết này có nhiều khuất tất, yêu cầu các cơ quan chức năng điều tra, làm sáng tỏ.
Nạn nhân trong trong vụ
việc này tên là Trần Đình Toàn (54 tuổi; trú tại phường Lộc Hạ, thành phố Nam
Định).
Theo người nhà ông Toàn
kể lại, thì vào trưa 11.6, sau khi ăn cơm, nghỉ ngơi xong, ông Toàn có nhận
được điện thoại bảo ra ngoài chở khách. Theo người nhà ông Toàn, trước khi rời
khỏi nhà, sức khỏe của ông Toàn vẫn bình thường.
“Đến hồi 13h15 cùng
ngày, có 1 cán bộ CA cùng ông tổ trưởng dân phố đến hỏi lý lịch và nghề nghiệp
của gia đình em trai tôi, từ vợ con đến các anh chị em ruột, mà không hỏi han
gì đến em trai tôi” - ông Trần Đăng Ninh (anh trai ông Toàn) viết trong đơn
đề nghị gửi các cơ quan CA đề nghị làm rõ vụ việc.
Đơn kể tiếp: Đến 16h30
cùng ngày, một cán bộ CA đến gia đình thông báo ông Toàn chết do sốc thuốc và
báo gia đình xuống nhận xác.
“Gia đình chúng tôi
và họ hàng, làng xóm rất bất ngờ và sửng sốt khi nghe tin này, vì thực tế em
tôi chưa từng nghiện. Vào lúc 17h, chúng tôi xuống nhà xác bệnh viện tỉnh nhưng
công an không cho gia đình vào gặp em tôi. Đến tận 19 giờ mới cho gia đình vào
nhận xác.
Khi thay quần áo cho em
tôi, gia đình phát hiện vết bầm tím trên ngực. Gia đình có thắc mắc thì các anh
công an có trả lời: “Nếu gia đình có ý kiến gì thì sẽ khám nghiệm tử thi”.
Vết thâm trên ngực ông
Toàn. Ảnh do người nhà chụp lại sau khi nhận xác ông Toàn.
Nhưng lúc đó em trai
giáp tôi là ông Trần Đình Khang cùng vợ ông Toàn là bà Lý quá bối rối nên không
quyết định được việc mổ tử thi và đưa em trai tôi về. Nhưng lúc này công an có
bảo bà Lý ghi theo lời đọc của các anh công an là em tôi bị mắc các bệnh về
tim, gan và các bệnh mãn tính khác và bảo em dâu tôi ký vào” - đơn đề nghị kể
tiếp sự việc. Ông Trần Đình Khang (anh trai ông Toàn) thì kể lại: Bên phía CA
cho biết: vào khoảng hơn 12 giờ ngày 11.6, CA phường Hạ Long thấy ông Toàn chở
một người đi trên xe, nghi ngờ ông Toàn có ma túy trong người, nhưng kiểm tra
không phát hiện ra. “Sau đó, CA có đưa em tôi về đồn. Họ bảo lúc này em tôi
có biểu hiện mệt mỏi, ho khạc nên đã gọi taxi đưa em tôi vào bệnh viện” -
ông Khang kể.
Chết vì nguyên nhân gì?
Gia đình và họ hàng ông
Toàn không tin rằng ông Toàn chết do sốc thuốc (sốc ma túy). Gia đình ông Toàn
cho biết, tuy ông Toàn đã phải bị giam 2 năm vì tàng trữ chất ma túy, nhưng ông
Toàn không phải là người nghiện ma túy.
Đám ma ông Trần Đình
Toàn diễn ra trong chiều 12.6.
Khi đưa xác ông Toàn về
vào tối 11.6, cả gia đình, họ hàng ông Toàn rất bất bình đã lên CA phường Hạ
Long để chất vấn tại sao ông Toàn chết.
“Đồn CA phường Hạ
Long và anh Toán (phó CA thành phố Nam Định) có trả lời cho gia đình biết là
ông Toàn bị bắt lúc 12h30 ngày 11.6. Trong lúc hỏi cung thì ông Toàn lên cơn
khó thở và đưa vào bệnh viện đa khoa tỉnh cấp cứu và đến 15 giờ cùng ngày thì
ông Toàn tử vong”- ông Trần Đăng Ninh cho biết. Một người nhà của nạn nhân
bức xúc: “CA nói là ông Toàn chết do sốc thuốc, nhưng trong khi họ kiểm tra
ông Toàn thì ông đi xe máy, nếu sốc thuốc thì làm sao điều khiển được xe máy.
Chẳng nhẽ ông Toàn sốc thuốc ngay trong trụ sở Công an phường, trước mặt các
anh CA được hay sao?”.
Như vậy, chưa biết cụ
thể nguyên nhân cái chết của ông Toàn là do sao, nhưng có rất nhiều câu hỏi
trong vụ việc này:
- Tại sao CA không thông
báo ngay cho gia đình ông Toàn tình trạng của ông Toàn, mà chỉ cử cán bộ CA
xuống hỏi han thông tin về gia đình ông Toàn?
- Tại sao lại ngăn cản,
không cho gia đình ông Toàn vào ngay trong nhà xác để nhận mặt ông Toàn?
- Tại sao CA nói đưa nạn
nhân vào cấp cứu, nhưng khi người nhà nạn nhân vào bệnh viện hỏi thì bệnh viện
cho biết là không có ai như vậy vào cấp cứu?...
Tất cả những điều trên
khiến nhiều người không khỏi nghi ngờ cái chết của ông Toàn có sự khuất tất, mờ
ám? Để làm rõ thông tin về vụ việc, chiều 12.6, nhóm phóng viên đã tìm đến trụ
sở CA phường Hạ Long. Tuy nhiên, ông Nguyễn Xuân Đô- trưởng CA phường- đã từ
chối làm việc với các phóng viên với lý do phải có ý kiến cho phép làm việc của
CA thành phố.
Một phóng viên trong
nhóm đã gọi điện để liên hệ công việc tới ông Trần Phú Hà - Trưởng CA thành phố
Nam Định - nhưng ông Hà không bắt máy.
Phóng viên này đã nhắn
tin nêu nội dung vụ việc đề nghị CA thành phố làm việc để cung cấp thông tin,
nhưng sau đó cũng không nhận được phản hồi của ông Hà.
LS Lê Công Định: Vài ký ức nhân kỷ niệm 5 năm ngày tôi bị bắt,
13/6/2009
Lê Công Định - Luôn tự nhắc nhở rằng hàng triệu gia đình đồng bào miền
Nam từng mất tất cả vào ngày 30/4/1975, nên tôi nghĩ số phận mình cũng vậy,
ngày 13/6/2009 quả thật là một biến cố “30 tháng 4” của gia đình tôi. Sáng thứ
Bảy cuối tuần hôm đó, đến văn phòng muộn, tôi mở máy tính cá nhân, chuẩn bị
viết lại bài phát biểu vào tháng trước tại buổi hội thảo của Câu Lạc Bộ Nguyễn
Văn Bình do Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp chủ trì, vừa nâng ly cà phê espresso
yêu thích lên định uống, thì một tốp nhân viên an ninh hùng hổ xông vào phòng,
yêu cầu tôi đứng yên và đọc lệnh bắt tạm giam.
Trong đầu tôi liền vang
lên ý nghĩ : “Điều phải đến đã đến rồi đây!” Thật ra, tôi đã đoán biết mình sẽ
bị bắt, nhưng quyết định không lẩn tránh và chấp nhận vào tù. Trước khi anh
Trần Huỳnh Duy Thức bị bắt vào ngày 24/5/2009, chúng tôi đã gặp nhau, anh Thức
nói anh linh cảm ba chúng tôi sẽ bị bắt. Anh muốn tôi và anh Lê Thăng Long
tránh đi để còn giúp đỡ nhiều người, nhưng tôi bảo tất cả chúng ta phải đi cùng
nhau dù ở đâu, “không thành công cũng thành nhân”!
Thức cảm động xiết tay tôi, anh nhắc nhở nhiệm vụ của tôi với tư
cách một luật sư là phải chứng minh rằng hệ thống pháp luật này chỉ bảo vệ sự
lãnh đạo của một nhóm người thiểu số, nên người dân cần phải bất tuân để thay
đổi sự bất công của nó. Từ biệt Thức, tôi ra về lòng nặng trĩu, không biết ngày
mai sẽ ra sao và tôi có cơ hội chứng minh điều đó hay không. Vào ngày 4/6/2009,
nhận tin đến lượt anh Long sau khi anh Thức đã bị bắt, tôi biết ngày tự do của
mình không còn bao lâu.
Sau khi đọc lệnh bắt
giam, các nhân viên an ninh lập tức kiểm tra máy tính cá nhân của tôi. Họ mừng
rỡ phát hiện bản “Tân Hiến Pháp” vì có lẽ đó là bằng chứng sáng giá nhất của
một “kế hoạch lật đổ nhà nước CHXNCN Việt Nam”. Tôi thoáng nghĩ ngay đến sự
nguy hiểm của tài liệu này, vì không biết họ sẽ suy diễn trong tưởng tượng đến
đâu. Thật ra, nguồn gốc của tập bản thảo bỗng chốc trở nên danh tiếng đó lại
hết sức giản dị, bởi đấy chỉ đơn thuần là công trình học thuật cá nhân của tôi
mà thôi, không một mưu tính chính trị nào ẩn giấu bên trong, như đã được cơ
quan an ninh và hệ thống truyền thông nhà nước thổi phồng.
Xin dông dài đôi chút về
quá khứ học hành của tôi. Năm 1989 tôi tốt nghiệp Trường Đại Học Pháp Lý Hà Nội
(chi nhánh TPHCM), tiền thân của Trường Đại Học Luật TPHCM bây giờ. Tiếng là
một cử nhân luật, vừa 21 tuổi đời, nhưng khi đọc các chứng thư công chứng của
Phòng Chưởng Khế Sài Gòn trước 1975 và đọc hai bản Hiến Pháp của nền Đệ Nhất và
Đệ Nhị Cộng Hòa từ 1955 đến 1975 tại miền Nam Việt Nam, tôi chỉ đủ sức hiểu một
cách mơ hồ, nếu không muốn nói là chẳng hiểu gì cả. Tôi nhận ra trường luật
XHCN đã trang bị cho sinh viên kiến thức và phương pháp nghiên cứu nhầm lẫn. Từ
đó, tôi dành nhiều thời gian và công sức tự ép mình vào một quá trình tự đào
luyện lại môn luật học theo hệ thống phương Tây.
Đối với thư tịch tiếng
Việt, trong nhiều năm trời tôi tìm đọc tất cả các sách và tạp chí về luật do
Trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn và các định chế tư pháp của Việt Nam Cộng Hòa
xuất bản. Tôi cũng trau dồi vốn tiếng Pháp và tiếng Anh để đọc các sách luật in
ở nước ngoài. Bắt chước cụ Nguyễn Hiến Lê, để tổng kết kiến thức tự đào luyện
của mình, tôi quyết định viết xuống những gì học được. Tuy nhiên, thay vì viết
sách như cụ Nguyễn, tôi bắt tay soạn thảo các bộ luật quan trọng nhất của một
quốc gia, đó là các bản Tân Hiến Pháp, Tân Dân Luật, Tân Thương Luật và Tân Dân
Sự Tố Tụng, theo tên gọi của tôi. Cùng với các bộ luật, tôi viết sách chú giải
nội dung và trình bày lý do vì sao từng điều luật được soạn thảo theo hướng
này, mà không phải hướng khác, tất cả là 4 quyển sách.
Do kiến thức và kinh
nghiệm của tôi được bồi đắp thêm nhiều từ việc học hành và làm việc hằng ngày,
nên theo thời gian tôi đã liên tục sửa chữa bản thảo của 4 bộ luật và 4 quyển
sách ấy. Công việc cần mẫn lặng lẽ như vậy được tiến hành trong 20 năm, từ 1989
đến 2009, nhưng tôi vẫn chưa ưng ý về bản thảo cuối cùng, một phần vì tính cầu
toàn của tôi từ nhỏ, một phần vì vẫn định bụng sẽ có ngày mang ra nhờ giới học
thuật chuyên môn phê bình và bổ túc.
Đến lúc bị bắt, trong
máy tính cá nhân của tôi vẫn còn lưu trữ bản thảo của 4 bộ luật và 4 quyển sách
dang dở ấy. Tuy nhiên, đối với cơ quan an ninh, chỉ bản “Tân Hiến Pháp” mới có
giá trị của một “kế hoạch lật đổ” nên họ chỉ in ra bản thảo này và buộc tôi ký
tên xác nhận. Tôi đã yêu cầu được chép lại nội dung của các tài liệu không liên
quan đến vụ án, vì đó là những tài liệu riêng của tôi, song họ bác bỏ với sự so
sánh buồn cười như sau: một căn nhà dùng làm địa điểm hành nghề mại dâm, thì
khi bị niêm phong, các đồ đạc bên trong, cùng với cái giường, cũng phải bị tịch
thu (!?). Tất nhiên, cuối cùng tôi đành thúc thủ trước lập luận trí tuệ như vậy
và ... nhớ hoài. Bây giờ ngẫm nghĩ vẫn tiếc công sức của 20 năm tràn đầy nhiệt
huyết dành cho một nền luật pháp trong mơ mà không sao làm lại được.
Tháng 8/2009 bản “Tân
Hiến Pháp” bị mang đi giám định cùng với các tài liệu khác của tôi. Biên bản
kết luận “giám định văn hóa” nhận định đại ý như sau: nội dung của bản “Tân
Hiến Pháp” thuần túy có tính chất học thuật với các quan điểm pháp lý thường
thấy ở các nền pháp luật phương Tây, tuy nhiên do tài liệu này được một nhà
chính trị như Lê Công Định sử dụng, nên mưu đồ và tác hại về mặt chính trị cần
phải được các cơ quan an ninh xem xét và xử lý. Xin miễn bình luận về cái gọi
là “giám định” đó.
Tương tự, quyển sách
“Con đường Việt Nam” thực ra chỉ mới được phác họa trong suy nghĩ của anh Thức,
rồi nhân gặp tôi và anh Nguyễn Sĩ Bình, được mang ra bàn luận để xem ai có thể
đóng góp gì thêm giúp nó phong phú hơn. Chúng tôi dự định rằng quyển sách đó
chỉ mang tính chất nghiên cứu và đề xuất những giải pháp xử lý khủng hoảng kinh
tế-xã hội để chính phủ tham khảo, và vì thế sẽ chỉ xuất bản trong nước. Đến khi
chúng tôi bị bắt, một chữ của quyển sách cũng chưa được viết xuống, nhưng cơ
quan an ninh đã vội vã suy diễn và thổi phồng lên thành một “kế hoạch lật đổ”,
như thể nó đã được viết và in ra trong một âm mưu chính trị xấu xa và đang được
thi hành trên thực tế thì bị các chiến sĩ an ninh với nghiệp vụ điều tra tài
tình phát hiện.
Tất nhiên, trong các
buổi làm việc ban đầu, tôi đã bác bỏ sự gán ghép và suy diễn của điều tra viên
theo hướng “suy đoán có tội”, thay vì “suy đoán vô tội”, đối với bản “Tân Hiến
Pháp” và ý tưởng về quyển sách “Con đường Việt Nam”. Sau đó, khi nhận ra sự cố
tình lý sự cùn, tôi quyết định không tranh cãi nữa, để họ mặc sức áp đặt và
dựng lên một câu chuyện hài hước như những gì đã diễn ra, vì tôi biết rõ sẽ đến
một ngày chúng tôi phải nói ra sự thật với bằng chứng còn đó trên giấy trắng
mực đen về sự gán ghép và suy diễn vụng về như vậy.
Sau khi khám xét hai văn
phòng làm việc và nhà riêng của tôi, đoàn xe dài đưa tôi về trại tạm giam B34
trên đường Nguyễn Văn Cừ lúc 9 giờ tối thứ Bảy. Ngoài đường, phố xá vẫn tấp nập
dòng người đi chơi đêm cuối tuần. Sài Gòn vẫn lung linh ánh đèn như tự bao giờ,
nhưng với tôi cuộc đời đã lật sang một trang mới. Lúc xuống xe đi vào khu buồng
giam, nhớ lời Thiền sư Thích Nhất Hạnh, tôi đi chậm rãi, ý thức từng bước chân,
giữ nhịp thở sâu, đều đặn, dù toàn thân đã rã rời.
Cả ngày chưa ăn, tôi xin
nước uống. Các điều tra viên mang một hộp cơm thịt kho đến đưa tôi ăn, nhưng
tôi lắc đầu từ chối. Các anh lại mang ra một hộp sữa mời tôi uống thay cơm, tôi
cũng từ chối. Tâm trạng ngổn ngang nhiều ý nghĩ đã cản trở tôi nuốt trôi bất cứ
thứ gì lúc đó. Ngay đêm ấy người ta tiến hành buổi thẩm vấn đầu tiên, kéo dài
đến sau 12 giờ khuya. Vào buồng giam tôi được phát một manh chiếu, tấm mùng và
chiếc gối, tất cả đều dơ bẩn, mà tôi chẳng buồn quan tâm. Loay hoay tìm cách
giăng mùng, vì không một dụng cụ và dây treo tường nào được cho phép trong
buồng giam, nên đến gần 3 giờ sáng tôi mới ngả lưng, nhưng trằn trọc mãi đến
tận sáng hôm sau. Quả là “ngày dài nhất” trong cuộc đời ngắn ngủi!
Nằm vắt tay lên trán suy
nghĩ, bỗng nhớ lời ba tôi dặn lúc sinh thời. Ông thường nói câu “anh hùng vị
quốc vong thân” thời nay không còn đúng nữa, người tài phải biết sử dụng tài
năng cho dân, cho nước, vì vậy phải biết quý trọng và gìn giữ tấm thân mình.
Trong tôi như bừng lên ngọn lửa soi đường, giúp tôi đối phó hữu hiệu vụ án hung
hiểm này trong nhiều tháng năm sau đấy. Thế là ngay ở đêm đầu tiên tôi đã làm
bài thơ thứ nhất trong tù, như sau:
Chết là hết, tang bồng
nhẹ gánh,
Khỏi sống nhìn hệ thống
phi nhân.
Song cha dặn người còn,
nước giữ,
Bậc anh tài vị quốc lưu
thân.
Rồi nghĩ về gia đình. Sự
chia tay đầy nước mắt của vợ tôi lúc chiều tối, khiến tôi đau đớn. Ý nghĩ rằng
chính mình đã phá hỏng tương lai của vợ, khiến lòng càng thêm dằn vặt khôn tả.
Và bài thơ thứ hai đã ra đời lúc gà gáy sáng:
Dấn thân giúp nước chưa
tròn nợ,
Chuốc họa vô thân, vợ
chẳng nhờ.
Kẻ ở người đi muôn cách
trở,
Tòa Phúc thẩm đã lén lút xử kín nhà văn Phạm Viết Đào
P.V.K (Blog Nguyễn Xuân Diện) - Hôm thứ Hai đầu tuần (9/6/2014) Tòa phúc
thẩm đã lén xử KÍN và y án Sơ thẩm, tức là án tù 15 tháng cho nhà văn Phạm Viết
Đào. Tòa không báo cho vợ con ông biết, nên cả vợ và con đều không có
mặt, cũng không có luật sư, vì ông tự bào chữa.
Trước đó 1 tuần, vợ và
con ông đã liên hệ với Tòa để hỏi về lịch phiên xử phúc thẩm nhưng tòa không
trả lời, bảo cứ chờ. Bất ngờ, ngày 9/6 tòa lén lút xử mà không báo cho gia
đình, đến hôm nay vợ con ông vào thăm bác mới biết chuyện đó.
Phạm Viết Đào là một nhà
văn, một blogger yêu nước, với tinh thần chống Tàu rất quyết liệt. Ông đã thu
thập hồ sơ về chiến tranh Biên giới 1979 và phỏng vấn nhiều tướng lĩnh, sĩ
quan, binh lính tham gia chiến trường, nhằm cung cấp cho hậu thế những hiểu
biết chân thực về cuộc chiến tranh này. Em trai ông là một Liệt sĩ hy sinh
trong cuộc chiến tranh Biên giới.
Trong giờ phút Tổ quốc
lâm nguy, xin cùng nhớ tới Nhà văn - Blogger yêu nước, Phạm Viết Đào!
Mong ông giữ gìn sức
khỏe!
P.V.K
Công an & côn đồ cùng chiến tuyến khủng bố người dân
Công An đi trước côn đồ theo sau đập phá Hội
Thánh Tin Lành Mennonite
Đoàn Huy (Danlambao) - Từ ngày 09/06/2014 đến khuya 12 /06 / 2014 Hội Thánh Tin Lành Mennonite chi hội Bến Cát - Bình Dương tại đường D10 - Phường Thới Hòa. Các Mục sư, tín đồ và học viên liên tục bị sách nhiễu bắt bớ, đánh đập... Nhưng đỉnh điểm là vào lúc 21 giờ 15 đêm 12/06/2014 công an và côn đồ đều có mặt bao vây Hội Thánh, cơ quan công quyền ra lệnh cho cắt điện, cúp nước... Bên trong hội thánh có trẻ em, phụ nữ mang thai đều ở trong không khí sợ hãi bao trùm... chỉ ít phút sau là một trận mưa “đá xanh” ném thẳng tay vào nơi hoạt động tôn giáo do Mục Sư Hồng Quang cai quản. 90 % cửa kính bị vở, các thanh sắt khung cửa bị biến dạng do bị công an và côn đồ cưa, phá hoại…
Nhiều người dân chứng
kiến vô cùng bất bình và ngao ngán và tự hỏi đây là bọn “Tà quyền” chứ không
phải là “chính quyền” bởi trước khi họ hành động là lệnh cho cắt điện để người
dân không nhận diện được mặt mủi thế nào.... chỉ có những kẻ làm việc gian tà
mới có những hành động như thế.
Trong video cho thấy
nhiều phụ nữ bị đánh đập bị thương ở mặt, vỡ môi, công an Bình Dương còn lăng
mạ các Mục Sư bằng cách không cho mặc áo (cỡi trần), hai tay đưa lên đầu như
bắt được tù binh trong trận chiến... khi dẫn giải lên đồn công an giam giữ.
Người dân Bình Dương còn
nhớ rất rõ cách đây một tháng những kẻ gây bạo loạn đốt phá các công ty nước
ngoài ngày 13/05/2014, những âm thanh đập phá hội Thánh Mennonite và cái cảnh
công an đi trước côn đồ theo sau... tiếng xe máy gầm rú rất giống nhau.
Những bài học trong chốn lao tù (Phần 1)
Nguyễn Trung Tôn (Danlambao) - Ra khỏi nhà tù Cộng sản được hơn một năm
nay; bận rộn với cuộc sống gia đình nên tôi cũng không có thời gian để viết lại
những câu chuyện mà tôi đã trải qua trong nhà tù. Hôm nay lưng tôi bị đau do
bệnh thoái hóa đốt sống lại hành hạ. Nằm trên giường suy nghĩ về quá khứ, hiện
tại và tương lai của bản thân gia đình và đất nước. Những ký ức chốn lao tù
bỗng trở lại trong tôi. Tôi cố ngồi dạy ghi lại những sự kiện đáng nhớ của mình
làm lưu niệm cho bản thân và những ai muốn tìm hiểu về một phần xã hội Việt Nam
hiện tại ở chốn nhà giam.
Sáng ngày 15/1/2011, tôi bị Cơ quan cảnh sát điều
tra công an huyện Nam Đàn và Cơ quan an ninh điều tra tỉnh Nghệ an bắt về công
an huyện Nam Đàn với lý do không đăng ký tạm trú qua đêm. Khi về tới Công an
huyện thì họ không hề đề cập gì tới việc tôi qua đêm mà không đăng ký tạm trú.
Họ tiến hành lấy lời khai của tôi cho tới 21h đêm thì trao cho tôi một lệnh tạm
giữ với thời hạn 3 ngày. Tôi ngơ ngác, không hiểu lý do gì mà tôi bị tạm giữ?
Bởi lẽ qua một ngày Công an lấy lời khai của tôi, tôi đâu có gì để mà khai với
họ, ngoài việc tôi vào Nghệ an để đón cháu Đức con chị Hồ Thị Bích Khương ra
nhà tôi để đi học tiếp vì cháu về quê thăm bà nội vào dịp nghỉ học cuối kỳ. Tôi
không làm gì vi phạm luật pháp tại Nghệ An. Tôi được một chiến sỹ Cảnh sát mang
hàm trung sĩ, tên Hà dẫn vào buồng giam.
Tôi hỏi Hà: Công tắc điện buồng ở đâu?
Lối đi vệ sinh chỗ nào?
Cậu ta mở cửa đẩy tôi vào trong và nói: Cứ
vào sẽ biết.
Cánh cửa buồng giam đóng lại. Trời tối như mực,
một mình một buồng giam và lúc đó đã khoảng 21h 30 nên các tù nhân ở các buồng
khác đã phải đi ngủ. Tôi mò mẫm lấy tay để lần xem đâu là nơi nằm, nơi đi vệ
sinh. Vì buồng giam không dược lắp điện, tôi phải sử dụng hết tất cả các giác
quan của mình để biết chỗ năm là một bục xi măng cáo khoảng 50 cm. Hạ lưng
xuống nền xi măng lạnh buốt lưng, với thời tiết gần tết nhiệt độ xuống khoảng 9
hay 10 độ c. Lạnh quá không chịu nỗi. Tôi đứng ra gần cửa hé mắt ra khe hở của
cánh cửa sắt buồng giam và gọi lớn “Chú Hà ơi mang cho anh cái chăn để
đắp chứ, lạnh thế này anh không chịu được”.
Một lát sau cậu Hà mang cho tôi một cái ruột
chăn bông cũ. Cậu bảo tôi: “Anh đắp tạm cái này, nếu lạnh thì mai tôi đưa
thêm”. Đêm đầu tiên ở tù tuy hơi lạnh, nhưng tôi vẫn ngủ rất ngon, bởi sau một
ngày bị công an thay nhau xét hỏi. Sáng hôm sau là Chúa nhật nên vừa mới mờ
sáng tôi đã tỉnh dậy và cầu nguyện, tôi hy vọng rằng hết 3 ngày tạm giữ thì
công an sẽ phải thả mình ra. Rồi cứ thế thời gian trôi qua cũng thật nhanh.
Chiều ngày 17/1 tức ngày thứ 2 trong tuần. Tôi thấy họ mở buồng giam và đưa tôi
lên phòng lấy cung. Tại đây họ cho tôi xem những thứ mà họ đã thu giữ của gia
đình tôi vào sáng ngày hôm đó. Gồm máy tính, băng đĩa, máy in và nhiều vật dung
khác. Họ bắt đầu khai thác máy tính của tôi. In các bài viết của tôi có trong
máy tính và yêu cầu tôi ký vào. Tôi đồng ý ký tên vào những bài viết đó vì đấy
đúng là những bài tôi đã viết. Sau khi lấy ra hàng loạt bài viết và kiểm tra
nội dung hơn 200 đĩa DVD, VCD thu giữ tại nhà tôi xong. Họ tiếp tục trao cho
tôi một lệnh tạm giữ thứ 2 với thời hạn 3 ngày rồi tiếp tục đưa tôi trở lại
buồng giam. Tôi không còn bỡ ngỡ như trước nữa vì đã “quen” với buồng giam này.
Thấm thoát thời gian trôi, chiều ngày 22/1 Cơ
quan CSĐT huyện Nam Đàn dùng xe của cơ quan đưa tôi và chị Hồ Thị Bích Khương
xuống Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Lần đầu tiên trong đời tôi bị Công an
dùng Còng số 8 còng tay lại. Tôi không biết rằng thế là tôi chuẩn bị tới một
môi trường sống mới. Tới cổng trại giam Công an bắt chúng tôi ngồi đợi mãi cho
tới khi một Trung tá an ninh điều tra tỉnh Nghệ An, tên là Văn, mang tới và đưa
cho chúng tôi ký vào quyết định khởi tố của họ đối với chúng tôi. Tôi xem quyết
định đó thì biết là mình bị khởi tố theo điều 88 của BLHS. Tôi vui vẻ ký vào mà
không hề phản đối gì, còn chị Hồ Thị Bích Khương thì cương quyết không ký. Tuy
nhiên dù ký hay không thì họ vẫn cứ giam. Trời sắp tối tôi được một đại úy quản
giáo tên Nguyễn Văn Thành dẫn từ cổng trại vào nhà giam. Đi cùng với quản giáo
này có thượng sĩ Vi Văn Sơn, cán bộ phụ trực trại. Tôi phải đi trước họ một mét
họ đi sau và thúc giục đi nhanh lên.
Quãng đường từ cổng trại vào buồng giam không
xa, nhưng cũng đủ để tôi vừa đi vừa ngắm quang cảnh xung quanh lúc hoang hôn
với những cành cây trơ trụ lá vì tiết trời giá lạnh. Nhưng những cành cây đó
đang lu lú nhữngbúp non để đón chờ mùa xuân sắp tới. Không gian đó làm cho tôi
có thêm nghị lực và ấp ủ những tia hy vọng cho Việt Nam một ngày mai tươi sáng.
Tiếng thượng úy Vi Văn Sơn cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi: “Đi nhanh
lên! Ông đá chết mẹ mày bây giờ” Thú thật lần đầu tiên tôi bị công an
quát mắng như vậy. Tôi giật mình và bước nhanh hơn tới nhà giam A la. Quản giáo
Nguyễn Văn Thành mở cửa buồng giam số 9 đưa tôi vào đó. Quản giáo dặn với vào: “Giao
cho Toàn thằng này nhé! Chỉ dẫn cho nó!”
Cánh cửa buồng giam đóng lại, tôi bước vào buồng
giam. Đập vào mắt tôi là 3 người tù đầu cắt trọc, họ nhìn tôi chăm chăm. Xác
định họ ít tuổi hơn mình nên tôi cất tiếng “Chào các chú”.
Một người trong bọn họ hỏi tôi: “Mày
chào ai vậy? Chưa bao giờ đi tù à?”
Tôi bảo: “Chưa! Tôi bị bắt lần đầu.”
Người này nói tiếp: Thằng Rùa lấy cho nó bộ quần
áo cho nó thay đi. Thằng này mày đi tắm đi rồi thay quần áo lên đây tao nói
chuyện.
Cảm giác có chuyện chẳng lành, tôi nói: “Thôi
ạ trời lạnh lắm, để trưa mai ấm hơn tôi sẽ tắm”.
Người này nói tiếp: “lạnh cũng phải tắm,
ở tù mà không tắm rửa sạch sẽ thì ghẻ lở không chịu được đâu”.
Biết không thể từ chối nên tôi đành phải tắm.
Tôi cởi quần áo ra tắm, nhưng vẫn mặc quần lót như ở nhà. Cậu ta nói: “Cởi
hết ra! Trong này toàn đàn ông cả phải cởi truồng mà tắm. Tắm xong quạt người
cho khô mới mặc quần áo, nếu không sẽ bị hâm và lở loét đấy.”
Tôi nghe theo họ, cởi hết đồ và tắm. Nói thật là
vừa lạnh vừa xấu hổ nên tôi tắm qua loa rồi mượn quần áo mặc vào.
Khóa học đầu tiên trong tù dành cho tôi bắt đầu
khai giảng. Họ bảo tôi ngồi lên bục xi măng, gần phía hố vệ sinh rồi bắt đầu…
Người có uy nhất trong buồng lên tiếng: “Mày tên gì? Quê ở đâu? Bị bắt
tôi danh gì? Tại sao bị bắt? Công an nào bắt?”
Tôi lần lượt trả lới các cậu hỏi của người này. Cậu
ta tiếp lời: “May phúc cho mày đấy. tao cũng quê ở Nam Đàn, nhà tao gần
công an huyện đấy. Tao bị chúng nó bắt giam ở đó, tao treo cổ tự tử mà bị đứt
dây nên không chết. Chúng sợ tao làm lần nữa nên chuyển gấp xuống đây. Thôi ít
nhiều gì chúng ta cũng cùng là nạn nhân của công an Nam Đàn nên tao tha cho
mày, không làm “thủ tục” nhập buồng, nhưng về “Lý thuyết” thì phải học.”
Cậu ta bắt đầu giới thiệu các thành viên trong
buồng giam: “Tao giới thiệu để mày biết Tao tên là Trần Thế Toàn. Buồng
trưởng buồng này. Bới vậy vào đây mọi thứ mày đều phải hỏi ý kiến tao mới được
làm. Còn đây là thằng Lâu Vả Rùa nó là người Lào bị bắt về tôi buôn bán heroin,
đã giam ở đây gần một năm. Nó có thể nhẹ thì bị tùtrung thân, nặng thì bị tử
hình, còn đây là thằng Thò Gà Hùa người HMong ở Quế Phong cũng tội buôn
bánheroin, nhẹ thì 20 năm, nặng thì trung thân. Buồng giam này là buồng giam
đặc biệt dành cho những đối tượng trọng án, nên được lắp bóng điện và có “Mắt
mèo” theo dõi.”
Toàn đưa tay chỉ về hướng Camera trên tường và
nói tiếp: Vì có nó nên mọi hoạt động trong buồng đều bị theo dõi.
Toàn bảo tôi: Trong này có luật riêng là ba
không ba có. Mày phải biết nghe chưa? Ba không là:Không nghe, không thấy,
không biết. Cán bộ có hỏi gì chuyện trong buồng cũng phải trả lời trước sau như
một. Tất cả phải bắt đầu từ chữ “Không”. Ba có là: Có mắt như mù, có tai như
điếc, có mồn như câm. Như vậy không được nhìn việc của người khác, không nghe
lén chuyện của người khác, không hớt lẻo chuyện của người khác với bất kỳ ai.
Tóm lại không phải việc của mình thì không tò mò làm gì.
Nói xong Toàn hỏi lại tôi: Đã nhớ chưa?
Tôi trả lời: Nhớ rồi!
Toàn nhắc lại: Nhớ rồi mà còn vi phạm
thì đừng trách đấy nhé.
Toàn nói: Ở trong này người ta không gọi
nhau theo tuổi đời mà gọi nhau theo tuổi tù. Ai ở đây lâu hơn thì là bề trên,
ai vào sau là bề dưới. Cán bộ quản giáo thì tù phải gọi họ bằng ông, tù nhân
vào sau phải gọi tù nhân vào trước bằng anh. Đó là luật bất thành văn nhưng ai
cũng phải tuân thủ.
Toàn cho tôi biết thêm: Để vào nhập
buồng thì các tù nhân phải qua thủ tục Thông tai, Thông ngực, Cuốc chim. Nhưng
phúc cho mày là mày không phải vào buồng “Vệ sinh” nên không phải nếm mùi, vào
đây gặp tao, tao cho qua là phúc ba đời đấy.
Nghe Toàn nói tới đây, mặc dù chưa biết thông
tai, thông ngực, cuốc chim là gì nhưng tôi thầm cảm ơn Chúa là mình đã thoát
được những thủ tục này. Toàn tiếp tục dạy tôi một bài học nữa trước khi đi ngủ: Trong
buồng giam không được đi đại tiện ban đêm. Sáng mai khi mở cửa buồng rồi thì
mọi người thay phiên nhau để đi đại tiện, nên phải tập cho quen đi, đi tiểu thì
tự do nhưng phải đi tiểu kiểu của phụ nữ để nước tiểu không văng ra ngoài làm
hôi khai trong buồng.
Vậy là buổi học đầu tiên trong vòng 30 phút kết
thúc, nhưng đối với tôi vô cùng giá trị và tôi ơn Chúa vô cùng vì được gặp Trần
Thế Toàn, một người “thầy” nhiệt tình, tận tụy chu đáo đối với tôi. Lúc này
Toàn nói: Thôi hôm nay chỉ nói tới đây thôi, mai sẽ tiếp tục. Tôi thấy Toàn bảo
Hùa: “Bắt đầu đi em” Hùa lấy chiếc khăn tắm vắt lên dây mắc màn, cố ý che chiếc
Camera lại, Toàn móc trong người ra một tở giấy báo và một nhúm thuốc lào cùng
một cái bật lửa. Toàn cuốn thuốc như cái loa kèn dài, dùng bật lửa nhưng không
có ga. Hùa lấy bông xé thật tơi đưa cho Toàn cả hai người lúi húi bật lửa.
Toàn hỏi tôi, Có hút thuốc không? Tôi nói, Tôi
không hút. Toàn bảo phải tập đi, vào đây chỉ có điếu thuốc làm vui thôi, mà
thuốc là hàng cấm đấy, nhưng vẫn có để dùng, không hút thuốc thì sao biết được
giá trị của nó trong chốn lao tù. Tôi nói, trước đây tôi có hút, nhưng từ khi
làm Mục sư tới giờ tôi đã bỏ. Toàn khuyến khích: Vào đây rồi thì cứ hút
cho vui, ở đây thì sư với sải gì nữa, hút cho vui, sau về lại bỏ cũng được. Mà
mày không hút là phụ lòng tốt của tao đấy. Mày thích tao đối xử tử tế với mày
hay thích tao dùng “luật”? Thấy Toàn nói vậy tôi tặc lưỡi kéo một hơi.
Đã lâu không hút thuốc, nay hút lại làm tôi say chóng cả mặt. Hút xong điếu
thuốc chúng tôi bắt đầu vào giấc ngủ.
Một ngày trôi qua ở chốn lao tù cũng thật nhiều
kỷ niệm. Tôi sẽ cố gắng viết tiệp những câu chuyện tiếp theo trong thời gian
tới.
(Còn nữa)
Thanh Hóa, ngày 13/6/2014
Nguyễn Trung Tôn
ĐT: 0162.8387.716
Email: nguyentrungtonth@gmail.com
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền