HÀNH
TRÌNH THĂM NUÔI LÊ THỊ PHƯƠNG ANH CỦA BÀ ANH THƯ
Mật vụ CS
ném vỡ kính xe chở người viếng đám tam LS Trần Lâm
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
Ngô
Thị Hồng Lâm
Ngày 28/8/2014, bà Nguyễn
Thị Anh Thư một mình dắt 3 đứa nhỏ bằng tàu hỏa vượt ngàn dặm từ Quảng Trị vào
trại giam B5 của Công An Đồng Nai, để các cháu được gặp mẹ nó là cô Lê Thị
Phương Anh, hiện đang bị Công an Đồng Nai bắt giam trái phép đã 6 tháng qua.
Sáng 30/8/2014 bà Anh Thư
lếch thếch dắt 3 đứa bé vào Trại giam B5 theo lịch hẹn thăm nuôi thường kì.
Nhưng cán bộ của trại giam nghỉ lễ 2/9, không giải quyết cho người nhà thăm gặp
thân nhân. Bà Anh Thư lại dắt các cháu trở về Quảng Trị.
Lịch thăm nuôi thân nhân
Công an Đồng Nai đã thông báo chuyển sang ngày 1 và 15 hàng tháng. Vì đường xa
dặm thẳm, nên bà Anh Thư chỉ đủ khả năng vào thăm con gái Lê Thị Phương Anh một
lần trong tháng là ngày 15/10/2014. Bà dắt theo đứa cháu ngoại của bà là thằng
con trai để gặp mẹ nó!
Trong lần gặp này cô Lê Thị
Phương Anh gầy sút đi 11kg, do thiếu thốn trong lao tù sau 6 tháng bị
giam nhốt. Cô ấy đã bị những cơn đau bao tử hành hạ mà không có thuốc đặc trị.
Gặp mẹ, thằng bé nhào vào lòng khóc thổn thức. Thật buồn khi phải nghe con
trẻ nó hỏi: ”Mẹ, Tết này mẹ có về với con không?“. Gặp con gái xong, bà lại hối
hả dẫn cháu ngoại lên tàu hỏa trở về Quảng Trị
Người cầm đầu CSĐT cho biết
đã hoàn thành kết luận điều tra, 3 bạn trẻ này sẽ ra tòa trong vòng 1 hoặc 2
tháng tới đây.
Đã 6 tháng trôi qua, kể từ
ngày Công an Đồng Nai bắt giam trái phép với 3 bạn trẻ là Lê Thị Phương Anh, Đỗ
Nam Trung và Phạm Minh Vũ. Vẫn chỉ có một mình bạn Đỗ Nam Trung là gia đình có
nhận được 1 thông báo nhưng lại… “đầu ngô mình Sở”. Ngày ra thông báo 176/PC-44
là ngày 15/5/2013. Nhưng ngày 14/5/2014 lại là ngày “cơ quan CSĐT PC-44 Công An
Đồng Nai đã tạm giữ hình sự đối với Đỗ Nam Trung”?!!!
Còn lại cô Lê Thị Phương
Anh và bạn Phạm Minh Vũ, cho đến nay gia đình cũa họ vẫn không hề nhận được một
thông báo hay một lệnh tạm giữ hình sự đối với bị can theo đúng Luật hình sự
ban hành. Phải chăng các chiến sĩ của cơ quan CSĐT Công An Đồng Nai không biết
Luật???
Quả thật công an Đồng Nai
đã bất chấp dư luận ngồi xổm lên luật pháp, bắt người không cần lệnh! Bắt
người vô cớ khi ba bạn trẻ này có mặt ở khu công nghiệp Amata vào lúc những cơn
bạo động đã tàn.
Được biết cô Lê Thị
Phương Anh là một nạn nhân đã dũng cảm đứng đơn tố cáo sự việc tày trời
của ngài Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải là người có mặt trong đường dây ma túy.
Nên phải chăng việc bắt
giam trái phép đối với cô Lê Thị Phương Anh là nhằm góp phần che đậy nội dung
cần được phanh phui trước công luận!
Viết bài này gửi đến bạn
gái trẻ Lê Thị Phương Anh những lời chúc mừng thân ái nhất nhân sinh nhật lần
thứ 30 của bạn đang phải đối mặt trong lao tù. Chúc bạn kiên cường nhé. Chúng
tôi luôn bên cạnh bạn.
Sài Gòn, ngày 16/11/2014
N.T.H.L
Anh Ba Sàm – Phá
Vòng Nô Lệ
“Những bài
viết, sự kiện, những cơ quan, tổ chức… có điều gì hay/dở, những con người
tốt/xấu đều có thể được hội tụ về đây, phơi bày, cọ sát, so sánh, được đông đảo
cư dân mạng khắp trong ngoài nước tức khắc nhận biết. Kẻ xấu bị vạch mặt phải
biết sợ, người tốt được động viên, gắn bó”.
“Dân mình
thực ra rất quan tâm chính trị, chỉ phải cái đảng, nhà nước lại không muốn vậy,
làm đủ cách để dân chán chính trị, nói đúng hơn là nghĩ, bàn chuyện chính trị
theo “định hướng”, trong đó cách quan trọng nhất là thông qua báo đài nhà nước”.
“Dù chiến
tranh hay hòa bình, vẫn có một mạch ngầm luôn luôn chảy, đó là mạch
ngầm khai dân trí”.
(Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh)
MỤC LỤC
Giới thiệu và tóm tắt 3
Lá thư từ một người vợ. 4
Sơ lược tiểu sử Nguyễn Hữu Vinh. 8
Sơ lược tiểu sử Nguyễn Thị Minh Thúy. 9
Trang mạng Anh Ba Sàm. 10
Một số diễn biến kể từ khi Nguyễn Hữu Vinh bị bắt. 11
Kết luận điều tra của Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an. 12
Bắt Anh Ba Sàm là trái pháp luật. 13
Sự nguy hiểm của Điều 258. 16
Viết blog cho một tương lai dân chủ. 21
Báo chí quốc tế viết về Anh Ba Sàm. 26
GIỚI THIỆU VÀ TÓM TẮT
Đây là một tập hợp báo cáo về một trong những blogger nổi tiếng
và có ảnh hưởng nhất ở Việt Nam kể từ năm 2007, ông Nguyễn Hữu Vinh, tức
blogger Anh Ba Sàm. Ông Vinh bị bắt cùng người cộng sự vào ngày 5/5/2014, cả
hai cùng bị truy tố theo Điều 258, một điều khoản tai tiếng trong Bộ luật Hình
sự Việt Nam.
Vụ án bộc lộ rất nhiều hành vi vi phạm nhân quyền, từ xâm phạm
quyền riêng tư, bắt giữ tùy tiện, đến đối xử hạ thấp nhân phẩm, không đảm bảo
quy trình tố tụng, và nói chung, nó phản ánh việc nhà nước Việt Nam đã không
thực hiện đúng các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền.
Báo cáo cung cấp những phân tích sâu về các vi phạm nhân quyền
này, đồng thời, cũng kể lại quá trình Anh Ba Sàm sử dụng blog và mạng xã hội để
khai dân trí và đấu tranh vì một nền dân chủ cho Việt Nam.
LÁ THƯ TỪ MỘT NGƯỜI VỢ
Kính gửi: Các độc giả của blog Anh Ba Sàm; các cơ quan ngoại giao và
chính phủ; các tổ chức bảo vệ nhân quyền và các cơ quan truyền thông.
Kính thưa quý vị,
Tôi là Lê Thị Minh Hà, vợ của ông Nguyễn Hữu Vinh, tức blogger
Anh Ba Sàm.
Chồng tôi được báo chí quốc tế đánh giá là một trong những nhà
hoạt động dân quyền nổi tiếng nhất Việt Nam. Đối với người dân trong nước, đặc
biệt là cộng đồng những người sử dụng Internet ở Việt Nam, ông là một trong
những blogger nổi tiếng nhất, người sáng lập và điều hành trang blog Anh Ba
Sàm, tức Thông Tấn Xã Vỉa Hè, gắn bó với độc giả Việt Nam từ năm 2007 đến nay.
Chồng tôi và cộng tác viên, cô Nguyễn Thị Minh Thúy, đã bị cơ
quan an ninh điều tra thuộc Bộ Công an Việt Nam bắt giữ ngày 5/5/2014 và bị
khởi tố theo Điều 258 Bộ luật Hình sự, “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ
xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
Chồng tôi và cô Minh Thúy đã bị tạm giam kể từ đó và cho đến nay vẫn chưa được
gặp thân nhân.
Chồng tôi – Anh Ba Sàm – đã làm gì?
Là vợ của Anh Ba Sàm, vì hoàn cảnh sức khỏe không tốt, không
chịu được điều kiện khí hậu-thời tiết miền Bắc, tôi không thường xuyên ở bên
chồng tôi trong những năm qua; nhưng những gì tôi biết về ông lâu nay luôn
thống nhất rằng: Ông là một người yêu nước bằng cả trái tim. Hơn thế nữa, ông
là một trí thức, một blogger luôn ý thức được tầm quan trọng to lớn của mạng
Internet đối với công cuộc dân chủ hóa và phát triển đất nước. Và ông đã luôn
sử dụng Internet như một công cụ để thực hiện mong ước nhiệt thành của ông –
“khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.
Trang mạng Anh Ba Sàm (địa chỉ hiện nay: basam.info,
anhbasam.wordpress.com, basamnews.info) được thành lập năm 2007 nhằm mục đích
“giải phóng bạn đọc khỏi sự nô lệ về tinh thần”, mà chồng tôi gọi tắt là “phá
vòng nô lệ” và lấy đó làm chủ trương của trang. Ông tin rằng, người dân Việt
Nam chỉ có thể có được những quan điểm chính trị riêng nếu được thông tin đầy
đủ.
Theo tinh thần ấy, mỗi ngày Anh Ba Sàm đều tổng hợp thông tin về
những vấn đề chính trị từ nhiều nguồn khác nhau: từ các cơ quan truyền thông
Nhà nước, các hãng tin nước ngoài, từ những nhà hoạt động, nhà báo, những blog
cá nhân và cả những trang mạng bị chính phủ Việt Nam gọi là “phản động”, “thù
địch với Nhà nước”.
Ngoài ra, Anh Ba Sàm còn cống hiến cho độc giả các danh sách
đường dẫn (link) phong phú đến 50 trang blog hàng đầu của các cá nhân và tổ
chức xã hội dân sự Việt Nam, 50 trang truyền thông độc lập và của nhà nước bằng
tiếng Việt, 56 trang truyền thông nước ngoài cũng như 19 trang mạng hướng dẫn
cách vượt kiểm duyệt Internet. Những kỹ thuật của blog đã tạo điều kiện cho độc
giả viết các bình luận nóng hổi về những sự kiện thời sự.
Theo nhiều nguồn thống kê khác nhau thì từ năm 2009, chồng tôi
và cộng sự đã đưa lên Internet hàng trăm nghìn bài báo, trong đó có rất nhiều
tư liệu quý như lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1995, sách trắng về quan hệ Việt
Nam – Trung Quốc, và nhiều bài viết của các cây viết nổi tiếng Việt Nam. Mỗi
ngày, trang mạng Anh Ba Sàm có trung bình một trăm nghìn lượt truy cập.
Rất có thể là Nghị định số 72/2013/ND-CP của Chính phủ về “Quản
lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet” đã được ban hành chỉ để nhằm kiểm
duyệt trang Anh Ba Sàm. Khoản 4 Điều 20 và Khoản 4 Điều 26 của Nghị định này
(có hiệu lực từ ngày 1/9/2013) cấm các chủ blog và trang mạng ở Việt Nam thu
thập thông tin từ những cơ quan truyền thông Nhà nước hoặc từ những trang mạng
của các cơ quan công quyền. Ở thời điểm đó, Anh Ba Sàm là trang mạng duy nhất
có thể tiếp cận ở Việt Nam mà có một khối lượng tư liệu và số người truy cập ở
mức đáng kể như thế.
Gia đình Anh Ba Sàm. Ảnh chụp năm 1992.
Chồng tôi có phạm tội không?
Chính phủ Việt Nam đã huy động hacker tấn công trang mạng Anh Ba
Sàm, vì nó không được Nhà nước cho phép, nghĩa là bị xem là bất hợp pháp. Ngay
từ năm 2007, trang mạng này đã liên tục bị đánh phá và làm tê liệt bằng những
cuộc tấn công từ chối dịch vụ (DDoS). Từ năm 2010 đến năm 2013, nó bị tin tặc
cướp ba lần và đã có lúc chủ nhân của nó bị mất quyền sở hữu. Trong thời gian
này, 6 trang mạng và trang blog sao chép lại nội dung của Anh Ba Sàm cũng bị
tin tặc cướp và xóa.
Bảy năm qua, trong quá trình điều hành trang mạng Anh Ba Sàm,
chồng tôi cũng đã nhiều lần bị cơ quan an ninh nhắc nhở, đe dọa, ép buộc ông
phải chấm dứt hoạt động làm blog, nhưng ông đều khéo léo và kiên quyết từ chối.
Luôn chọn cách tiếp cận mềm dẻo, ôn hòa, ông chưa bao giờ tự coi mình là kẻ thù
của chế độ, càng không chủ trương chống chính quyền bằng bạo lực – cho dù chỉ
bằng ngôn từ. Tuy rất kiên trì trong mục đích cho người dân được tiếp cận rộng
rãi với các nguồn thông tin khác nhau, nhưng ông không chọn cách đối đầu trực
tiếp với các cơ quan chính quyền. Tôi tin rằng, những gì ông làm đã vừa góp
phần “khai dân trí” như ông mong muốn, vừa giúp “khai quan trí” và giảm bớt mâu
thuẫn giữa chính quyền và người dân, điều hòa căng thẳng trong xã hội. Ông là
người có thể góp phần rất lớn cho một sự chuyển đổi ôn hòa ở Việt Nam theo
hướng dân chủ hóa.
Bản thân chồng tôi cho rằng trang mạng của mình đã thúc đẩy tự
do báo chí. Trong một diễn đàn thảo luận, ông đã lấy thí dụ rằng cùng một bài
đăng, trên trang mạng của một tờ báo nhà nước thì nó chỉ nhận được một phản
hồi, trong khi trang mạng của ông đã nhận được những 600 lời bình luận đối với
chính bài báo ấy. Như thế, ở Việt Nam, trong bối cảnh truyền thông-báo chí bị
Nhà nước kiểm soát chặt, đã hình thành những diễn đàn cho phản biện xã hội, có
tầm ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng.
Chồng tôi mong ước: Một ngày nào đó báo chí tư nhân chuyên
nghiệp sẽ được cho phép hoạt động ở Việt Nam. Và ông đã cố gắng hết sức để ngày
đó sớm đến.
Từ những điều trên, với tình cảm của một người vợ đối với chồng
mình và những hiểu biết về ông, tôi khẳng định: Chồng tôi – Ba Sàm Nguyễn Hữu
Vinh – nếu có phạm tội gì, thì chỉ là tội yêu nước, yêu tự do, và mong muốn đất
nước Việt Nam dân chủ hóa, người dân Việt Nam có quyền tự do.
Nguyễn Hữu Vinh là một người bảo vệ nhân quyền, đã nỗ lực tranh
đấu ôn hòa cho quyền con người ở Việt Nam, đặc biệt là quyền tự do thông tin và
báo chí. Việc bắt bớ ông là tùy tiện, vi hiến, trái pháp luật trong nước và vi
phạm các tiêu chuẩn và điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam đã ký kết.
Tôi xin kính đề nghị các độc giả của trang mạng Anh Ba Sàm, đề
nghị các cơ quan Chính phủ và Quốc hội Mỹ, các tổ chức nhân quyền quốc tế lên
tiếng và gây sức ép đòi hỏi chính quyền Việt Nam:
1.
Trả tự do ngay tức
khắc và vô điều kiện cho chồng tôi, nhà bảo vệ nhân quyền Nguyễn Hữu Vinh tức
blogger Anh Ba Sàm, và cộng sự của ông là Nguyễn Thị Minh Thúy;
2.
Hủy bỏ Điều 258 Bộ
luật Hình sự Việt Nam về “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”;
3.
Tôn trọng quyền tự do
thông tin và báo chí của người dân Việt Nam. Hủy bỏ ngay lập tức Nghị định số
72/2013/ND-CP về “Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet” và các văn bản
luật tương tự có mục đích hạn chế quyền tự do thông tin và báo chí ở Việt Nam.
Ngày 18 tháng 10 năm 2014
Lê Thị Minh Hà
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NGUYỄN HỮU VINH
Họ tên: Nguyễn Hữu Vinh
Sinh ngày 15/9/1956
Địa chỉ: số 5/2/4D, phố Đặng Văn Ngữ, phường Trung Tự, quận Đống
Đa, Hà Nội, Việt Nam
Tình trạng hôn nhân: Có vợ và hai con trai
Hoàn cảnh gia đình: Vợ (bà Lê Thị Minh Hà, sinh năm 1958) nghỉ
mất sức. Có mẹ già 94 tuổi đang sống thực vật.
Tốt nghiệp Học viện An ninh năm 1979
Từng công tác tại Tổng cục An ninh (1979-1984), Ban Việt kiều
Trung ương (1984-1995), Bộ Công an Việt Nam (1995-2000)
Ra khỏi ngành an ninh và thành lập Công ty Điều tra và Bảo vệ V,
năm 2000
Lập trang mạng Anh Ba Sàm, còn gọi là Thông Tấn Xã Vỉa Hè, ngày
9/9/2007.
Tham gia thành lập Nhóm 72 – gồm 72 trí thức, cùng ký vào một
bản kiến nghị gọi là “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992”, tháng 1/2013
Thúc đẩy phong trào đấu tranh dân chủ của giới nhân sĩ-trí thức
ở Việt Nam
Bị bắt ngày 5/5/2014
Bị khởi tố ngày 13/5/2014 theo Điều 258 Bộ luật Hình sự, “tội
lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, công dân”.
Luật sư bào chữa: Hà Huy Sơn
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NGUYỄN THỊ MINH THÚY
Họ tên: Nguyễn Thị Minh Thúy
Sinh ngày 10/11/1980
Địa chỉ: số 411-E1, tập thể Thành Công, phường Thành Công, quận
Ba Đình, Hà Nội
Tình trạng hôn nhân: Ly hôn. Có hai con trai 7 tuổi (song sinh)
Tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, Đại học Mở Hà Nội năm 2003
Nhân viên kế toán Công ty Điều tra và Bảo vệ V, từ năm 2003
Bị bắt ngày 5/5/2014
Bị khởi tố ngày 13/5/2014 theo Điều 258 Bộ luật Hình sự, “tội
lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, công dân”.
Minh Thúy và hai con
TRANG MẠNG ANH BA SÀM
Địa chỉ website: http://anhbasam.wordpress.com/; http://basam.info; http://basamnews.info
Cung cấp RSS Feeds của 32 trang mạng của nhà báo, blogger chính
trị nổi tiếng trong và ngoài nước: Quê Choa, Huỳnh Ngọc Chênh, Nguyễn Xuân
Diện, Người Buôn Gió, Jonathan London, Thùy Linh…
Kết nối với 50 tờ báo tiếng Việt lớn, 50 cơ quan truyền thông
quốc tế lớn
Đăng tải 3060 bài phân tích, bình luận (tính đến ngày
26/10/2014, không kể các dữ liệu bị hacker xóa bỏ), và nhiều tư liệu quý về:
Hiến pháp Việt Nam và các nước, lịch sử Việt Nam, tư liệu về chiến tranh Việt
Nam, Hồ Chí Minh, chính trị Việt Nam đương đại, hồi ký của các nhân vật lịch
sử, v.v.
Đăng tải 2555 bản tin hàng ngày.
Cập nhật thông tin về tất cả các sự kiện chính trị lớn ở Việt
Nam, đặc biệt những sự kiện mà báo chí quốc doanh không đăng tải như: biểu tình
và đàn áp biểu tình, cưỡng chế đất đai, các vụ bạo hành của công an nhằm vào
dân thường, phiên tòa xử người bất đồng chính kiến, nỗ lực đấu tranh dân chủ
của các blogger, v.v.
“Bị tấn công nhiều lần, ba lần nặng nhất: 2/11/2010; 9/6/2011;
8/3/2013″.
MỘT SỐ DIỄN BIẾN KỂ TỪ KHI NGUYỄN HỮU VINH BỊ BẮT
Tháng 5/2014 – nay: Các tờ báo và trang mạng của công an liên tục đưa tin,
viết bài công kích, bôi nhọ Nguyễn Hữu Vinh và trang Anh Ba Sàm.
10/5: Một số blogger, trong đó có blogger Đinh Ngọc Thu và luật gia
Trịnh Hữu Long, đăng tải bài viết “Nguyễn Hữu Vinh bị bắt, nhưng Ba Sàm thì
không”, tuyên bố tiếp tục hoạt động của trang mạng Anh Ba Sàm, bất chấp các
hành động đàn áp của công an.
5/6: Bà Lê Thị Minh Hà, vợ ông Vinh, gửi đơn tố cáo và đơn khiếu nại
lần thứ nhất. Đơn tố cáo cho rằng việc cơ quan an ninh bắt giam ông Vinh là
hành vi bắt giữ tùy tiện, sai pháp luật, sai chuẩn mực tố tụng. Đơn khiếu nại
yêu cầu trả tự do cho ông Vinh ngay lập tức.
Các cá nhân và cơ quan nhận khiếu nại, tố cáo (Trương Tấn Sang,
Trần Đại Quang, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Văn Hiện) không trả
lời đơn của bà Hà.
16/6: Blogger Đinh Ngọc Thu, công dân Hoa Kỳ, ở bang California, kiện
báo Pháp luật Việt Nam tội vu khống bà và ông Nguyễn Hữu Vinh khi đưa tin sai
sự thật rằng “Nguyễn Hữu Vinh còn kết nối quan hệ với Việt Tân – một tổ chức ở
Mỹ chuyên chống Việt Nam – thông qua “cầu nối” Đinh Ngọc Thu – một thành viên
của Việt Tân, nhận sự chỉ đạo trực tiếp, đạo diễn của Thu cho những bài viết
chống Việt Nam trên trang blog của mình”.
Đơn kiện của bà Thu không được tòa án nào ở Việt Nam thụ lý,
cũng không nhận được phản hồi nào từ bất cứ ai.
27/7: Nhà thờ Thái Hà, Hà Nội tổ chức thắp nến cầu nguyện cho Nguyễn
Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy.
28/8: Bà Lê Thị Minh Hà gửi đơn khiếu nại lần 2, vẫn không được phản
hồi.
14/9: 51 nhà hoạt động nhân quyền và trí thức ở Việt Nam gửi kiến nghị
đến Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang, đòi trả tự do cho Nguyễn Hữu Vinh.
30/10: Cơ
quan an ninh điều tra, Bộ Công an, có bản kết luận điều tra về “Vụ án Nguyễn
Hữu Vinh cùng đồng bọn lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”
KẾT LUẬN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN AN NINH ĐIỀU TRA – BỘ CÔNG AN
Trích:
“Đây là vụ án nghiêm trọng, có tổ chức, với thủ đoạn phạm tội
tinh vi, xảy ra trong tình hình các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang
gia tăng sử dụng Internet với sự tham gia của hàng trăm website, blog, mạng xã
hội đưa tin xuyên tạc, vu cáo nhằm phá hoại tư tưởng, làm suy giảm lòng tin của
nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Nguyễn Hữu
Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy đã lợi dụng công nghệ thông tin và quyền tự do ngôn
luận, đăng trên hai blog “Dân Quyền”, “Chép Sử Việt” 24 bài viết có nội dung
sai sự thật, không có căn cứ; tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; bôi nhọ các cá nhân, làm ảnh hưởng đến uy tín của
cơ quan, tổ chức; đưa ra cái nhìn bi quan một chiều, gây hoang mang lo lắng,
làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo đất nước
của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hai blog “Dân Quyền” và “Chép Sử Việt” đã có hàng triệu lượt người truy cập, có
nhiều ý kiến phản hồi có nội dung tiêu cực, thể hiện quan điểm đồng tình với
các bài viết được đăng tải trên hai blog. Hành vi của Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn
Thị Minh Thúy đã phạm vào tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định tại
Điều 258 – Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…”.
Bản kết luận điều tra cũng cho rằng ông Nguyễn Hữu Vinh và bà
Nguyễn Thị Minh Thúy không “thừa nhận hành vi phạm tội” và do đó “cần phải xử
lý nghiêm trước pháp luật”.
BẮT ANH BA SÀM LÀ TRÁI PHÁP LUẬT
§ Trịnh Hữu Long/ BBC tiếng Việt
Xét trên cả bình diện pháp luật nội địa lẫn quốc tế, việc bắt và
giam giữ blogger Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm) cùng cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy
là hoàn toàn tùy tiện và trái pháp luật.
Quy trình tố tụng sai từ đầu
Vụ án Anh Ba Sàm mở màn ngày 5/5 với việc bắt khẩn cấp ông
Nguyễn Hữu Vinh và sau đó là bà Nguyễn Thị Minh Thúy.
Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, quyết định bắt khẩn cấp
khác với quyết định bắt thông thường ở chỗ nó không cần sự phê chuẩn của Viện
Kiểm sát nhân dân cùng cấp trước khi thi hành. Việc phê chuẩn sẽ được tiến hành
sau khi bắt người, trong vòng 12 tiếng kể từ khi Viện Kiểm sát nhận được đề
nghị phê chuẩn từ cơ quan điều tra.
Quy định này trao cho cơ quan điều tra quyền hành động ngay lập
tức, không chịu bất cứ sự kiểm soát nào, và hạn chế tối đa nguy cơ rò rỉ thông
tin.
Tuy nhiên, quyết định bắt giữ khẩn cấp này của Cơ quan An ninh
Điều tra (Bộ Công an) lại không nằm trong bất cứ trường hợp nào được phép bắt
khẩn cấp theo quy định tại Điều 81, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
Theo đó, việc bắt khẩn cấp chỉ được tiến hành trong trường hợp
(i) khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; (ii) khi người bị hại hoặc
người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là
người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
và (iii) khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị
nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc
tiêu huỷ chứng cứ.
Cả ba trường hợp nêu trên đều dễ dàng bị loại bỏ, bởi Điều 258,
Bộ luật Hình sự không thuộc nhóm tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng, không có người bị hại nào hoặc người nào có mặt tại nhà và văn phòng của
ông Vinh và bà Thúy trông thấy họ đang thực hiện tội phạm gì, và cơ quan điều
tra không chứng minh được dấu vết tội phạm gì ở người hoặc chỗ ở của hai người
này. Bằng chứng là theo Bản Kết luận điều tra số 14/KLĐT ngày 30/10, tất cả các
đồ vật thu giữ được tại nhà và văn phòng của họ đều được kết luận là “không
liên quan trực tiếp đến vụ án”.
Việc sai phạm ngay từ khâu bắt giữ dẫn đến sai phạm của toàn bộ
quy trình tố tụng sau đó.
Vi phạm quyền bí mật thông tin cá nhân
Bản Kết luận điều tra còn trực tiếp tiết lộ phương pháp thu thập
chứng cứ trái pháp luật của cơ quan công an, mà những chứng cứ này lại được
dùng làm cơ sở để ra quyết định bắt khẩn cấp đối với ông Vinh và bà Thúy.
Điều đó được thể hiện rõ ngay trang 1 của bản Kết luận điều tra,
trình bày rằng vụ án đã được bắt đầu từ ngày 01/4 khi Cục Bảo vệ Chính trị 6 –
Tổng cục An ninh I – Bộ Công an gửi Công văn cho Cơ quan An ninh Điều tra, cung
cấp dữ liệu theo dõi hai thuê bao Internet (đăng ký với nhà mạng VDC và FPT)
của ông Vinh và bà Thúy, với kết luận “thường xuyên đăng tải trên Internet các
bài viết có dấu hiệu xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, công dân”.
Điều này không khỏi khiến những ai quan tâm đặt ra một số câu
hỏi: Liệu công an có được phép theo dõi và sao chép dữ liệu truy xuất Internet
của người dùng hay không? Nếu công an muốn theo dõi và sao chép dữ liệu đó thì
nhà mạng có nghĩa vụ cung cấp hay không? Và nhà mạng có được phép cung cấp dữ
liệu của khách hàng cho công an hay không?
Một số người khác sẽ liên tưởng đến một chi tiết tuy nhỏ mà
không nhỏ trong các vụ án ở phương Tây: Cảnh sát chỉ được phép nghe trộm điện
thoại của công dân khi được tòa án cho phép.
Đối với pháp luật Việt Nam, câu trả lời có thể dễ dàng được tìm
thấy tại Điều 38, Bộ luật Dân sự về quyền bí mật đời tư, theo đó, “thư tín,
điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo
đảm an toàn và bí mật”.
Điều 72 của Luật Công nghệ thông tin cũng nghiêm cấm việc xâm
nhập, sửa đổi, xóa bỏ nội dung thông tin của tổ chức, cá nhân khác trên môi
trường mạng.
Tuy vậy, một số người có thể trích dẫn chính Điều 38, Bộ luật
Dân sự để phản bác, rằng việc kiểm soát thư tín và thông tin điện tử vẫn có thể
tiến hành theo quy định của pháp luật VÀ khi có quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Vậy nhưng quy định đó là quy định nào và quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đó là quyết định nào thì bản Kết luận điều tra hoàn toàn
không nhắc tới.
Nếu thực sự Bộ Công an được trao thẩm quyền theo dõi dữ liệu
thuê bao Internet, và thực sự có quyết định của một cơ quan nào đó cho phép họ
theo dõi thuê bao của ông Vinh và bà Thúy thì lại phải đặt một dấu hỏi lớn về
tính hợp hiến, hợp pháp và hợp lý của các văn bản đó.
Cần lưu ý rằng, cho đến nay, hai văn bản trực tiếp quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an là Nghị định số 77/2009/NĐ-CP và số
21/2014/NĐ-CP đều không được tìm thấy trên hệ thống công báo cũng như các
website tra cứu văn bản pháp luật. Một số nguồn tin nói rằng chúng được đóng
dấu Mật và không được phép công khai.
Bắt giữ tùy tiện
Dưới lăng kính pháp luật quốc tế về nhân quyền, hành vi bắt và
giam giữ ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy là sự vi phạm đối với
quyền tự do thân thể của họ và được định nghĩa là hành vi bắt giữ tùy tiện.
Các Điều 9 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 và Công
ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều khẳng định “không ai
có thể bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đầy một cách tùy tiện”.
Việt Nam là thành viên đầy đủ của Liên Hiệp Quốc và đã ký kết,
tham gia các văn kiện mang tính chất nền tảng và trụ cột này của luật nhân
quyền quốc tế.
Quy định khá khái quát của hai văn kiện nêu trên, trong một nền
pháp trị bình thường và với sự độc lập của hệ thống tư pháp, bao giờ cũng được
giải thích và thực thi gần với công lý xã hội nhất, tiệm cận nhất có thể với
điểm cân bằng giữa quyền của các cá nhân và sự an toàn của xã hội.
Vào năm 2000, Nhóm làm việc về bắt giữ tùy tiện của Liên Hiệp
Quốc, một cơ quan bao gồm các chuyên gia nhân quyền độc lập chuyên điều tra các
vụ bắt giữ tùy tiện ở các quốc gia thành viên, đã đưa ra một bộ ba tiêu chí cơ
bản để xác định khi nào thì một hành vi bắt giữ được coi là tùy tiện.
Trong số ba tiêu chí đó, việc bắt giữ do thực thi các quyền tự
do được quy định trong các văn kiện về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc sẽ được
coi là tùy tiện và được xếp vào Mục II (Category II).
Mặc dù ông Vinh và bà Thúy không khai nhận 24 bài viết được nêu
trong bản Kết luận điều tra là do họ đăng tải, nhưng việc công an cho rằng họ
đã đăng những bài viết đó và tiến hành bắt giữ họ, không gì khác hơn là sự vi
phạm quyền tự do ngôn luận, và rơi vào Mục II nêu trên.
SỰ NGUY HIỂM CỦA ĐIỀU 258
§ Trịnh Hữu Long – Phạm Đoan Trang
Lập luận căn bản mà một số người ủng hộ Điều 258 Bộ luật Hình sự
đưa ra là: 258 là điều luật bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức và công dân; kẻ nào xâm phạm những giá trị ấy thì phải bị
trừng phạt. Tuy nhiên, trái với lập luận căn bản này, 258 lại là một điều luật
xâm phạm nghiêm trọng các quyền tự do của công dân, chứ không hề bảo vệ.
Nếu chỉ xét về khía cạnh tinh thần và lý tưởng lập pháp, Điều
258 Bộ luật Hình sự tỏ ra rất thuyết phục. Ta hãy xem:
“Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. (1) Người nào lợi
dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự
do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. (2) Phạm
tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.”
Chung quy lại, điều luật này có nội dung là bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, tổ chức, công dân trong xã hội trước các hành vi xâm phạm của người
khác. Có vẻ đó là một ý chí lương thiện và đầy tính lý tưởng, một thứ không thể
phủ nhận và bất cứ kẻ nào phủ nhận đều đáng bị trừng phạt. Tuy vậy, các quyết
định lập pháp không cần đến mạch máu nóng chuyên chở những suy nghĩ giản đơn về
sự lương thiện như vậy. Nó cần hơn cả là một tư duy lập pháp, kỹ thuật lập pháp
dựa trên nền tảng công lý và khoa học.
Mơ hồ, chung chung – điều tối kỵ trong ngôn ngữ lập pháp
Trong ngôn ngữ pháp luật, có ít nhất một điều mà các nhà soạn
thảo phải tránh: sự mơ hồ, chung chung. Xem xét các điều khoản còn lại của Bộ
luật Hình sự, ta nhận thấy hầu hết chúng đều quy định những hành vi rất cụ thể
như giết người, gây thương tích, hiếp dâm, trộm cắp, buôn bán ma túy, nhận hối
lộ, bắt giữ người trái pháp luật,… Các điều khoản này nhằm bảo vệ những lợi ích
cụ thể của tổ chức và cá nhân trong xã hội.
Lẽ dĩ nhiên, pháp luật được xây
dựng nên để bảo vệ những lợi ích chính đáng của những thành viên trong xã hội.
Vậy thì tại sao lại có hẳn một điều luật sinh ra chỉ để nhắc lại nguyên lý đó?
Điều này cho chúng ta thấy phạm vi điều chỉnh của Điều 258 rộng đến mức có tính
bao trùm lên toàn bộ hệ thống pháp luật chứ không đơn giản là một điều luật đơn
lẻ trong một bộ luật đơn lẻ.
Theo Điều 8 Bộ luật Hình sự, “tội phạm” được định nghĩa là “hành
vi nguy hiểm cho xã hội”. Khoa học hình sự chia hành vi thành hai loại: hành
động hoặc không hành động, chỉ những phản ứng biểu hiện ra bên ngoài của một
người. Như vậy, tội phạm là những gì rất cụ thể, chứ không phải là những nguyên
lý hay lý tưởng.
Giả sử có một nghị định nào đó quy định trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước là tạo ra một môi trường Internet lành mạnh ở Việt Nam. Với
tính từ “lành mạnh”, nghị định này trở thành mơ hồ, chung chung, vì nó không
chỉ ra được một ranh giới cụ thể giữa những trường hợp vi phạm và không vi
phạm.
Không có tiêu chuẩn cụ thể nào để phân định “lành mạnh” và “không lành
mạnh”. Việc xem phim sex chẳng hạn, có thể bị một người coi là đồi bại, không
lành mạnh, nhưng lại là hoạt động có tính chất giải trí hoặc chữa bệnh, v.v.
đối với người khác.
Một điều khoản hoặc điều luật mơ hồ, chung chung, nghĩa là nó có
phạm vi áp dụng rất rộng trong những trường hợp rất cụ thể.
Điều 258 (Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân) không có tính từ
nào phạm lỗi mơ hồ, chung chung, nhưng nó có một động từ (“lợi dụng”) và một số
danh từ (“lợi ích của Nhà nước”) phạm lỗi này.
Nó dẫn đến một loạt câu hỏi:
– Thế nào là “lợi dụng”? Tận hưởng quyền tự do của con người đến
mức nào thì bị coi là “lợi dụng”? Tại sao việc thực hiện quyền của mình lại bị
coi là lợi dụng?
– Sử dụng, hay nói đúng hơn, tận hưởng, quyền tự do dân chủ đến
mức nào thì bị Nhà nước coi là “lợi dụng”?
– Có thể sử dụng các quyền tự do dân chủ để làm những việc gì?
– Lợi ích của Nhà nước cụ thể là gì? Ai quy định lợi ích của Nhà
nước? Đã từng có công dân nào nhìn thấy bảng danh sách các lợi ích của Nhà nước
để biết đường tránh vi phạm chưa?
Ví dụ, hành động in áo phản đối đường lưỡi bò, chống dự án khai
thác bauxite Tây Nguyên, v.v. của một số người, nếu đã xâm phạm lợi ích Nhà
nước thì cụ thể là xâm phạm những gì, quy ra thành tiền là bao nhiêu để nếu có
thể thì người phạm tội sẽ đền bù thiệt hại? Công dân Việt Nam có được hưởng
quyền tự do dân chủ đủ để… in áo không, và nếu in thì in như thế nào là xâm
phạm lợi ích Nhà nước, như thế nào là không xâm phạm?
Điều 258 không có câu trả lời cho các câu hỏi đó. Việc diễn giải
hoàn toàn tùy thuộc lực lượng công an và hệ thống tòa án, dưới sự lãnh đạo duy
nhất và tuyệt đối của Đảng. Và thế là sự tùy tiện và lạm quyền lên ngôi.
Điều 258 đã bảo vệ được ai?
Một số người bảo vệ Điều 258 cho rằng điều luật này bảo vệ tổ
chức và công dân khỏi bị “xâm phạm lợi ích hợp pháp”, và họ suy luận thêm: Đó
là bảo vệ tổ chức và công dân khỏi bị vu khống, bị xúc phạm danh dự và nhân
phẩm.
Nếu vậy thì họ vướng vào một mâu thuẫn: Bộ luật Hình sự đã có
các điều khoản quy định về tội làm nhục người khác (Điều 121) và tội vu khống
(Điều 122). Hai tác giả bài viết này không hoàn toàn đồng tình với việc xem xét
hành vi làm nhục và hành vi vu khống dưới góc độ hình sự, vì ở đây có dấu hiệu
hình sự hóa các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, điều này một lần nữa chứng minh sự
chồng chéo và bao trùm của Điều 258.
Thông thường, việc xâm phạm danh dự, nhân phẩm được bảo vệ bằng
Bộ luật Dân sự. Bộ luật Dân sự 2005 có Điều 37 về bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy
tín; Điều 38 bảo vệ quyền bí mật đời tư; và các quy định về bồi thường thiệt
hại.
Luật Báo chí cũng cấm việc đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu
khống nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của công dân.
Điều vô duyên nhất sẽ đến khi Nhà nước bắt giữ một người vì cho
rằng họ đã lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm lợi ích của một người khác,
kết luận điều tra được ban ra, Viện Kiểm sát truy tố, khi ra đến tòa thì người
bị hại tuyên bố: Tôi không cảm thấy bị xâm phạm gì cả. Khi ấy, Nhà nước sẽ ăn
nói ra sao?
Chừng đó quy định, điều khoản của pháp luật xem ra đã quá đủ cho
công dân và tổ chức. Vậy thì, Điều 258 ra đời để bảo vệ ai? Câu trả lời: bảo vệ
lợi ích của Nhà nước. Mà lợi ích của Nhà nước là gì thì lại tùy vào sự yêu ghét
và diễn giải của bộ máy công quyền.
Nói cho đúng thì năm 2010, nền tư pháp và an ninh Việt Nam đã
tạo tiền lệ sử dụng Điều 258 thay cho các điều khoản pháp luật hiện hành khác
để xử lý một trường hợp “nói xấu” người khác. Đó là khi blogger Cô Gái Đồ Long
bị bắt theo Điều 258, vì có hành động viết blog động chạm tới gia đình một ông
tướng công an. Vụ bắt giam Cô Gái Đồ Long, do đó, khiến chúng ta tưởng như ông
tướng công an đó chính là Nhà nước – bởi nếu ông là công dân thì đã có những
điều luật khác để bảo vệ quyền và lợi ích, danh dự và nhân phẩm của ông rồi kia
mà.
Như vậy, có thể nói ngắn gọn là: Điều 258 đã được vận dụng để
bảo vệ lợi ích của Nhà nước và công an.
Hàng chục người đã bị bắt vì 258
Trên phương diện lập pháp, Điều 258 bất hợp lý, tùy tiện và xâm
phạm quyền công dân như thế. Và trên thực tế, điều luật này quả thật đã được
chính quyền lợi dụng để bắt giữ, xét xử và bỏ tù ít nhất 48 người, tính từ năm
2006 đến nay. (*) Trong số này, có một số trường hợp bị bắt vì Điều 258, nhưng
về sau được/ bị chuyển đổi tội danh. Điều đó cũng cho thấy công dụng bảo vệ chế
độ tuyệt vời của 258: Đôi khi nó là cái cớ ban đầu để công an bắt giữ những
người nói/viết những gì mà chính quyền không ưa; cứ bắt giam cái đã rồi sẽ điều
tra, nghiên cứu để chuyển đổi tội danh cho phù hợp sau.
– Năm 2006: Đoàn Văn Diên (Hiệp hội Đoàn kết Công Nông Việt Nam)
– Năm 2007: Trương Minh Đức (nhà báo tự do), Trương Minh Nguyệt
(Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo), Nguyễn Văn Ngọc, Trịnh Quốc Thảo
(nhóm Người Việt Nam yêu nước)
– Năm 2008: Nguyễn Việt Chiến (báo Thanh Niên), Nguyễn Văn Hải
(báo Tuổi Trẻ). Chuyển đổi tội danh thành Điều 281 Bộ luật Hình sự, “Tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ”.
– Năm 2009: Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (tức blogger Mẹ Nấm), Bùi
Thanh Hiếu (blogger Người Buôn Gió), Phạm Đoan Trang
– Năm 2010: Lê Nguyễn Hương Trà (nhà báo, blogger Cô Gái Đồ
Long)
– Năm 2011: Nguyễn Văn Lía (tín đồ Phật giáo Hòa Hảo)
– Năm 2012: Trần Hoài Ân (tín đồ Phật giáo Hòa Hảo), 22 thành
viên của Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn. Các trường hợp thuộc Hội đồng Công
luật Công án Bia Sơn sau này đều được/ bị chuyển đổi tội danh thành Điều 79 Bộ
luật Hình sự.
– Năm 2013: Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào (nhà báo), Đinh Nhật
Uy (blogger), Lý Văn Dinh, Dương Văn Tu, Hoàng Văn Sang, Thào Quán Mua, Lý Văn
Hầu, Hoàng Văn Páo, Dương Văn Mình, Vừ A Sự.
– Năm 2014: Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm), Nguyễn Thị Minh Thúy
Điểm chung lớn nhất giữa các trường hợp bị bắt tạm giam, hoặc bị
xét xử và chịu án tù này là: Tất cả đều bị bắt vì tội lạm dụng các quyền tự do
dân chủ, xâm phạm lợi ích – chủ yếu là của Nhà nước!
Điều 258 xâm phạm quyền công dân là thế, nhưng vẫn có một bộ
phận dư luận ủng hộ, vì sao? Có lẽ tinh thần ủng hộ tuyệt đối đó xuất phát từ
tư duy “Nhà nước luôn đúng”. Lối tư duy “Nhà nước luôn đúng” này khiến những
người đó tin tưởng và ủng hộ đường lối, chủ trương, chính sách bất kể hay dở,
và hằn học với tất cả các ý kiến phản bác hay đặt vấn đề trái chiều.
——-
(*) Danh sách trên đây chỉ bao gồm những trường hợp bị bắt vì
Điều 258 mà giới truyền thông (báo chí, blog, mạng xã hội) có đề cập. Trên thực
tế, ở Việt Nam có thể còn rất nhiều vụ bắt giữ (tạm giam hoặc tù có án) nhân
danh “bảo vệ lợi ích Nhà nước” theo Điều 258 mà ít hoặc không được truyền thông
biết đến.
Danh sách được cập nhật vào ngày 29/10/2014, dựa theo nguồn: International
Society for Human Rights (ISHR), 2012.
VIẾT BLOG CHO MỘT TƯƠNG LAI DÂN CHỦ
§ Phạm Đoan Trang
Một ngày cuối tháng 5 ở Hà Nội, công an Việt Nam đột ngột ập vào
nhà, cũng là công ty, của một blogger nổi tiếng – Nguyễn Hữu Vinh, được biết
đến dưới cái tên Anh Ba Sàm. Vinh và người trợ lý là cô Nguyễn Thị Minh Thúy –
một người mẹ của hai đứa con song sinh 7 tuổi – bị bắt ngay lập tức.
Vụ bắt khẩn cấp rõ ràng nhằm làm Vinh bất ngờ. Hai website được
cho là do ông điều hành, gồm Chép Sử Việt và Dân Quyền, bị đóng cửa, cho thấy
công an đã lấy được mật khẩu vào cả hai trang.
Tuy nhiên, công an không kiểm soát được một số blog khác, mà
đáng chú ý nhất là trang tin vốn đông người đọc Ba Sàm News, và các trang này
vẫn tiếp tục hoạt động. Trên thực tế, chỉ 5 ngày sau khi Vinh và Thúy bị bắt,
hai cộng sự khác của ông đã ra một tuyên bố đầy thách thức: “Nguyễn Hữu Vinh bị
bắt, nhưng Ba Sàm thì không”. Tuyên bố này hàm ý rằng một phong trào viết blog
mạnh mẽ hơn, viết vì sự thay đổi, sẽ tiếp tục nổi lên ở Việt Nam.
Vụ bắt bớ gây một làn sóng phẫn nộ lớn trong giới đấu tranh.
Phong trào Con Đường Việt Nam, một tổ chức xã hội dân sự hoạt động vì quyền con
người ở Việt Nam, cũng ra một tuyên bố vào ngày 7/5, nêu rõ: “(Bằng) Việc tiếp
tục tước đoạt quyền tự do ngôn luận của các công dân trong nước như ông Nguyễn
Hữu Vinh, bà Nguyễn Thị Minh Thúy và những nhà hoạt động, blogger khác chứng tỏ
chính quyền Việt Nam không có thiện tâm hòa giải với chính người dân mình và
cương quyết khước từ mọi đóng góp của người dân vào tiến trình giữ nước và dựng
nước chung”.
Chính quyền phản công. Sử dụng hệ thống báo chí do công an và
quân đội kiểm soát, chính quyền buộc tội Vinh và Thúy “đăng tải các bài viết có
nội dung xấu, thông tin sai lệch, làm giảm uy tín, mất lòng tin trong nhân dân
về cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội lên mạng Internet”, vi phạm Điều 258 Bộ
luật Hình sự.
Trong một bài viết đặc biệt hằn học, một trang mạng của công an
buộc tội Vinh: “Y chuyên viết về các vấn đề chính trị xã hội Việt Nam với phong
cách bình luận chống đối, luôn tìm cách làm cho mọi thứ của Việt Nam xấu xa,
tồi tệ giống với con người của y”.
Người muốn thắp lửa
Nguyễn Hữu Vinh không phải luôn luôn là người được phong trào
dân chủ ưa thích. Bản thân vốn là một sĩ quan an ninh, ban đầu ông cũng bị nghi
ngờ. Sinh năm 1956 trong một gia đình cán bộ cao cấp, ông có đầy đủ điều kiện
để cũng trở thành một quan chức trong hệ thống cấp bậc của nhà nước cộng sản.
Ngay sau khi Vinh bị bắt, các blogger đã tìm lại tiểu sử gia
đình ông, để nhắc lại rằng cha của Vinh, cụ Nguyễn Hữu Khiếu, từng làm Đại sứ
Việt Nam tại Liên Xô hai nhiệm kỳ. Vào cái thời mà Liên Xô còn là “ông anh cả”
của Việt Nam trong Chiến tranh Lạnh, làm đại sứ là một đặc quyền, và như chính
Vinh từng viết trong một hồi ký ngắn vào năm 2012, ông và gia đình hồi đó sống
một cuộc sống mà toàn bộ phần còn lại của xã hội chỉ có thể mơ tưởng.
Ngôi nhà nơi ông sinh sống hồi nhỏ bây giờ là nhà của thủ tướng
đương nhiệm. “Khi người dân miền Bắc hầu như không biết đến hương vị bơ, sữa,
thì mỗi sáng hắn tản bộ vài bước qua số 2 Hoàng Diệu, kế bên dinh thự của Tổng
Bí thư Lê Duẩn, để mua những chai sữa tươi còn nóng hổi, những thỏi bơ, pa-tê,
ổ bánh mì thơm phức”.
Vinh thậm chí còn được gặp Hồ Chí Minh một lần khi mới lên 5
tuổi – đó được coi là đặc ân đối với người dân miền Bắc Việt Nam hồi ấy.
Quan trọng nhất, nhờ thành phần gia đình, ông được tiếp cận với
những cuốn sách mà dân thường hoàn toàn không thể động đến. Một trong số đó,
gọi là “tài liệu tham khảo đặc biệt”, gồm những bài viết được Thông Tấn Xã Việt
Nam dịch chọn lọc từ báo chí nước ngoài sang tiếng Việt.
“Những năm 1960’, loại này có chữ “Mật-Không phổ biến”, chỉ cấp
bộ thứ trưởng trở lên được cung cấp, sau này thêm cấp vụ, cục. Rồi khoảng cuối
1990’ thì bán tự do. Dù thế nào thì những tài liệu này cũng đã giúp hắn “tự
diễn biến” kha khá trong bao nhiêu năm “theo đảng”” – Vinh viết. Từ những tài
liệu này mà ông biết đến sự tàn bạo của chế độ cộng sản Mao Trạch Đông, mà tiếc
thay đó lại là lý tưởng mà chính quyền miền Bắc Việt Nam thời ấy cố vươn tới.
Chiến tranh leo thang, Vinh sơ tán về quê, nơi ông chứng kiến
cuộc sống nghèo đói của những người dân ở dưới trong bậc thang xã hội. Nhưng
niềm tin của ông vào lý tưởng cộng sản chỉ thật sự đảo lộn khi chiến tranh kết
thúc vào năm 1975, và ông có có cơ hội nhìn thấy khoảng cách phân chia sâu sắc
giữa “miền Nam tư bản” và “miền Bắc cộng sản”.
Ông không mất nhiều thời gian để
đi đến kết luận rằng đời sống dưới chế độ tư bản, bất chấp những hạn chế của
nó, vẫn thịnh vượng hơn và khắc hẳn cái cuộc sống được mô tả trong các tài liệu
tuyên truyền của người cộng sản.
“Hắn được “mở mắt” thêm nhiều nữa” – Vinh viết. “Rồi thêm một
thứ “diễn biến” khác là hắn đã liều bỏ không biết bao thời gian và tiền túi để
lọ mọ học tiếng Anh và vi tính từ lúc mọi người còn coi là thứ xa lạ”.
Để thắp lên ngọn lửa
“Luôn quyết liệt, đam mê, và can đảm” – Phạm Xuân Cần, bạn học
cũ của Vinh ở Học viện An ninh, viết, hòa thêm vào cơn phẫn nộ của cộng đồng
blogger sau vụ bắt giữ Vinh. Ông Cần nhớ lại Vinh đã là một sinh viên của Học
viện như thế nào, sau đó trở thành một sĩ quan an ninh, rồi làm việc ở Ban Việt
kiều. Kinh nghiệm làm việc của Vinh với các trí thức Việt Nam ở nước ngoài –
một số trong đó đã lưu vong từ năm 1975 – bổ sung thêm vào những hiểu biết của
ông về “miền Nam tư bản”, khiến ông bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ: “Bao nhiêu con người
với những bộ óc tài ba đã bị phung phí”.
Năm 1999, gần như ngay sau khi Việt Nam thông qua Luật Doanh
nghiệp, Vinh ra khỏi biên chế Nhà nước và thành lập công ty riêng, VPI, công ty
thám tử tư đầu tiên ở Việt Nam. Công việc làm ăn của Vinh tiến triển tốt, và
lợi nhuận của nó đủ làm Vinh nghĩ đến chuyện theo đuổi những sự nghiệp khác.
Năm 2005, khi mạng xã hội 360 (mà giờ đây đã sập) của Yahoo!
xuất hiện, Vinh cũng tham gia làm blog như bất kỳ thanh thiếu niên Việt Nam
nào. Ông tạo ra trang blog Anh Ba Sàm trên nền Yahoo, ban đầu chỉ đăng tải các
bài mà ông viết cho báo chí nhà nước, cho đến khi ông nhận ra nhu cầu của những
người dân Việt Nam, muốn biết “thế giới nghĩ gì về chúng ta”.
Thế là Vinh bắt đầu dịch các tin bài trên báo chí nước ngoài về
Việt Nam sang tiếng Việt, và lượng độc giả tăng dần. Blog Anh Ba Sàm cũng cung
cấp cả những tài liệu về mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, mà cho đến tận bây
giờ vẫn còn là một vấn đề chính trị nhạy cảm.
Mặc dù trang Anh Ba Sàm thu hút được một số lượng độc giả khá
lớn (đối với một website chính trị), nhưng Vinh không dừng lại ở đó. Ông đi xa
hơn trong sự nghiệp “khai dân trí” với sáng kiến xuất bản một bản tổng hợp
những tin tức quan trọng nhất mỗi ngày.
Vinh cũng thêm vào đó các comment (lời
bình luận) – kết hợp giữa những suy nghĩ sâu sắc của một trí thức với văn phong
dí dỏm, sắc sảo. Và các comment đã nhanh chóng trở thành đặc thù của trang Anh
Ba Sàm, thu hút sự quan tâm của hàng trăm nghìn người đọc tiếng Việt trên khắp
thế giới. Đó là một con số khá cao, đặc biệt khi mà lượng phát hành của tờ báo
lớn Tuổi Trẻ chỉ đạt tới khoảng 200.000 bản.
“Tin tức được cập nhật 24/7. Đúng như kỳ vọng của độc giả, blog
dành sự chú ý đặc biệt cho những câu chuyện mà nền báo chí quốc doanh của Việt
Nam không được phép đưa tin. Món điểm tin hàng ngày này đã thu hút tới 100.000
độc giả thường xuyên” – David Brown, một nhà cựu ngoại giao người Mỹ thường có
các bài viết được dịch đăng trên Anh Ba Sàm, đã viết như thế về trang mạng này
vào tháng 3/2013, khi nó chịu một đợt tấn công nặng nề của các hacker “ủng hộ
chính quyền”.
“Luôn đúng giờ, tuân thủ đạo đức báo chí, tức là chính xác,
trung lập và bảo vệ nguồn tin, tôn trọng bản quyền. Đó là những nguyên tắc mà
chúng tôi tuân theo trong suốt những năm qua” – Đinh Ngọc Thu, hiện là biên tập
viên chính của trang Anh Ba Sàm, nói.
Thu tham gia “điểm tin” cùng Vinh vào năm
2009, và lý do duy nhất khiến cô không bị bắt cùng Vinh và Thúy là vì cô đang
sống ở California.
Quan hệ của Vinh với một số người trong bộ máy Nhà nước, xuất
phát từ cương vị trước đây của ông trong các cơ quan nhà nước, cũng là những
nguồn tin hữu ích. Tuy nhiên, đồng thời, chúng cũng gây nghi ngờ rằng ông là
“an ninh trá hình”.
Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại sao Nguyễn Hữu Vinh
mãi không bị bắt? Làm sao ông có thể “sống sót” qua rất nhiều đợt công an đàn
áp blogger?
Bây giờ thì câu trả lời đã rõ ràng: Đó chỉ là vấn đề thời gian.
Công an vào cuộc
Chính quyền Việt Nam, với phần lớn là những gương mặt già nua,
có lẽ không để ý nhiều đến sức mạnh của Internet, nhưng bộ máy an ninh của họ
thì đã lưu tâm rất nhanh chóng. Bất kỳ người nào viết blog về các vấn đề chính
trị sớm muộn cũng thấy có vấn đề với mạng lưới công an dày đặc ở Việt Nam. Vì
thế, thật dễ hiểu khi Anh Ba Sàm được công an chú ý rất sớm, coi như một điểm tập
kết của các lực lượng “phản động”.
Và dù sao thì đấy cũng là một niềm tin có cơ sở. Trang web đối
kháng nào ở Việt Nam, hay nói đúng hơn là bằng tiếng Việt, cũng có lượng độc
giả trung thành riêng của nó. Bạn đọc của Ba Sàm, như ông mô tả, có rất nhiều
trí thức và đảng viên Đảng Cộng sản. Một tỷ lệ lớn trong số họ có thể vẫn còn
trung thành với ý thức hệ cộng sản đã lạc hậu, và cái mà họ cần là “sự thật như
nó vốn có” – trung lập và chính xác, không có sự kiểm duyệt của nhà nước.
Độc giả quả thật đã tạo thành một cộng đồng gắn kết, và bản thân
độc giả cũng có người đọc của chính họ – có nhiều người vào Anh Ba Sàm chủ yếu
để đọc các comment của Vinh và các blogger (“còm sĩ”) khác dưới mỗi bài. Rất
nhiều còm sĩ đã trở nên nổi tiếng trong “đại gia đình bạn đọc Anh Ba Sàm”.
Chỉ có một đội ngũ rất ít người vừa lo nội dung vừa lo bảo mật,
nên trang mạng thường xuyên bị tấn công. Ông Brown, nhà cựu ngoại giao, viết:
“… ngày 9/3, blog Ba Sàm bị tấn công triệt để. Bài vở, comment
của mấy năm trời mất sạch. Tài khoản email của đội ngũ biên tập viên cũng mất.
Nhóm Ba Sàm cho đến giờ vẫn chưa lấy lại được quyền kiểm soát trang
anhbasam.wordpress.com. Tuy nhiên, đó vẫn còn là một bi kịch có thể xử lý được.
Một ít nội dung đã được sao lưu dự phòng trên các máy chủ đặt ở nước ngoài”.
“… Một độc giả ngây thơ có thể kết luận rằng nhóm Anh Ba Sàm là
một lũ phản động bất mãn, sống ở Mỹ, mưu lật đổ chính quyền Hà Nội”.
Sự thật là Vinh và cộng sự của ông chẳng nhận khoản trợ giúp tài
chính nào từ bất cứ ai. Trên thực tế, khi nền kinh tế sa sút, công ty thám tử
tư của Vinh cũng gặp khó khăn và đã gần trên bờ vực phá sản khi Vinh và Thúy bị
bắt.
Một bạn đọc từng có đôi lần gặp Vinh kể lại một cuộc trò chuyện
của chị với Vinh. Một cách nghi ngờ, bạn đọc đó hỏi: “Tại sao anh làm tất cả
những việc này?”.
Ông đáp: “Bởi vì tôi ở vị thế tốt hơn bất cứ ai để làm việc này,
cho nên nếu không làm, tôi sẽ cảm thấy có tội”.
Và ông bảo: “Bởi vì tôi đáp ứng đủ ba điều kiện. Thứ nhất, điều
kiện kinh tế của tôi đủ tốt. Tôi có VPI, tôi không đến nỗi nghèo đói. Thứ hai,
tôi có kiến thức về mạng. Và thứ ba, quan trọng nhất, là tôi hiểu họ – công an.
Tôi đã từng ở trong họ, tôi hiểu họ”.
Tuy nhiên, có vẻ như cuối cùng ông đã thua. Người cựu sĩ quan an
ninh đã không nghĩ rằng những đồng nghiệp cũ của ông có thể bắt ông, và ông bị
bắt vào lúc không ngờ nhất.
Bản án đối với ông được dự đoán là sẽ nặng nề, bởi vì các tòa án
của công an luôn xử nghiêm những người bị coi là “phản bội” nguồn gốc cộng sản
của họ. Như Cù Huy Hà Vũ, con của một quan chức cộng sản cấp cao khác, cũng đã
bị kết án 7 năm tù vào năm 2011.
Nhưng
nói một cách lạc quan, chẳng phải đây là lúc để Vinh nghỉ ngơi hay sao? Ông đã
làm việc quá nhiều, đấu tranh quá kiên trì trong suốt 7 năm qua, làm kiệt quệ
cả bản thân ông lẫn các cộng sự. Và mặc dù ông có rất nhiều độc giả, cuối cùng,
về cơ bản đó vẫn là một cuộc chiến đấu trong cô đơn.
Nhưng
ông vẫn cứ blog.
BÁO CHÍ QUỐC TẾ VIẾT VỀ ANH BA SÀM
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền