Công An Tiếp Tục Đàn Áp Gia Đình
Huỳnh Trọng Hiếu
Công
an đánh dã man 3 phụ nữ, con gái bị đánh gãy răng, mẹ bị đánh & đâm điếu
thuốc vào trán
Công an đánh dã man 3 phụ
nữ, con gái bị đánh gãy răng, mẹ bị đánh & đâm điếu thuốc vào trán
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
|
|
Công an đánh dã man 3 phụ nữ, con gái bị đánh gãy
răng, ...
|
|||||||
www.youtube.com
|
Preview by Yahoo
|
||||||
|
|||||||
Huỳnh
Trọng Hiếu
October 11, 20140 Bình Luận
October 11, 20140 Bình Luận
Tối
qua, ngày 10/10/2014, vào lúc 12 giờ đêm, 1 nhóm An ninh mặc thường phục giả
dạng côn đồ tấn công vào nhà trọ của tôi tại địa chỉ 305/16 đường Trường Chinh,
Sài Gòn.
Gia đình tôi lúc này chỉ có tôi, vợ tôi và con trai tôi mới
10 tháng tuổi đang ngủ trên gác, không có bất kỳ phương tiện tự vệ nào. Chúng
tôi nghe tiếng va đập mạnh phát ra ngay cửa nhà vì có ai đó ném vào một cục đá
lớn. Tiếp theo, là những cú đạp mạnh liên tiếp khiến cho tấm cửa văng ra và 3 tên
côn đồ cầm hung khí xông vào nhà đập phá. Tên còn lại bao vây sau nhà,
dùng đá đập liên tục để phá tung cánh cửa sau.
Họ vừa đập phá vừa
văng tục, chửi rũa và đe dọa giết gia đình tôi. Những tên côn đồ này tấn công
chúng tôi có chủ đích và được chuẩn bị khá kỹ lưỡng. Họ đi trên 2 xe gắn máy,
bịt mặt và tấn công chớp nhoáng, sau đó nhanh chóng rời khỏi hiện trường, bỏ lại
một đống đổ nát.
Tiếng đập phá phát
ra khiến cho những gia đình lân cận thức giấc. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy được
vẻ mặt hoảng hốt và kinh hãi của những người hàng xóm khi tận mắt chứng kiến sự
việc.
Chưa dừng lại ở đó,
hơn nửa tiếng sau, đám côn đồ quay trở lại đông hơn, rồi tiếp tục ném đá vào
nhà. Lần này, chúng đi sâu vào căn nhà đập phá tủ đồ làm cho mặt kính vỡ vụn,
đạp đổ xe cộ và đấp nát tất cả những gì còn lại trong nhà. Bọn chúng ngang
nhiên đập phá, và chỉ bỏ đi khi thấy nhiều người hàng xóm mở cửa chứng kiến, và
biểu hiện cử chỉ bất bình.
Vụ việc gây cho gia đình chúng
tôi nhiều thiệt hại về tài sản. Điều may mắn là mọi thành viên trong gia đình
không có ai bị tổn thương thể chất, tuy nhiên, hành động vi phạm luật pháp và
phi nhân tính trên đã tác động không nhỏ đến tinh thần chúng tôi. Con trai tôi
mới 9 tháng tuổi đang ngủ thì bị đánh thức bởi tiếng động mạnh khiến nó sợ hãi
la hét thảm thiết.
Chúng tôi biết
rằng, những sự việc này được chỉ đạo từ cơ quan An ninh cộng sản Việt Nam nhằm
uy hiếp tinh thần đối với những người Bảo vệ Nhân quyền. Chúng tôi phản đối
những hành vi vi phạm luật pháp và vô đạo đức mà nhà cầm quyền đã áp dụng đối
với gia đình tôi.
Cũng xin nói thêm,
vào đúng ngày 10/10, từ sáng sớm, nhân viên An ninh canh gác trước nhà và theo
dõi sát sao mọi hoạt động của chúng tôi một cách công khai. Chúng tôi được
biết, cũng trong thời gian đó, những nhà đấu tranh Dân chủ kỳ cựu như Bác
sĩ Nguyễn Đan Quế cũng phải đối diện với những hành động sách nhiễu tương tự từ
phía chính quyền. Mọi hoạt động của nhà đấu tranh này đều bị kiểm soát, các
quyền tự do căn bản như quyền Tự do đi lại của ông cũng bị nhân viên an ninh
tước đoạt trắng trợn.
Tưởng cũng tốt để
nói, những sự vụ đàn áp liên tiếp mà chính quyền Cộng sản Việt Nam thực thi đối
với nhiều thành viên trong gia đình chúng tôi như chị Huỳnh Thục Vy và tôi diễn
ra trong bối cảnh đang có những chuyến thăm và làm việc của Nhân viên ngoại
giao cấp cao từ Hoa Kỳ đến Việt nam để điều tra về vấn đề Nhân quyền, đặc biệt
là quyền Tự do Tôn giáo.
Trong thời gian gần
đây, chúng tôi có những hoạt động tìm hiểu và khảo cứu nhiều hồ sơ Vi phạm Nhân
quyền tại Việt Nam để gửi báo cáo trực tiếp đến các viên chức ngoại giao Phương
Tây. Có thể nói rằng, chúng tôi đã đạt được những kết quả ban đầu khá tích cực
trong việc thiết lập những chuyến viếng thăm đối với các nạn nhân của chính
quyền.
Hồ sơ của Mục sư
Nguyễn Công Chính – một người từng chịu nhiều bách hại của chính quyền trong
việc rao giảng đạo Tin Lành ở các tỉnh Cao nguyên Trung phần Việt Nam là một
thí dụ điển hình.
Chúng tôi có nhiều
kế hoạch để tập hợp các sự vụ vi phạm Nhân quyền ở Việt Nam để tiếp tục báo cáo
lên chính giới Phương Tây cũng như các cơ quan Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Những
cố gắng nhỏ bé này không có mục tiêu nào khác hơn là muốn cải thiện tình hình
Nhân quyền tại Việt Nam.
Mặc dù gặp phải
nhiều sự đàn áp và sách nhiễu từ phía chính quyền, nhưng chúng tôi sẽ vượt qua
để thực hiện đúng các quyền của mình một cách bất bạo động, phù hợp với Luật
pháp cũng như thông lệ Quốc tế.
Huỳnh Trọng Hiếu
Sài Gòn ngày 11/10/2014
Sài Gòn ngày 11/10/2014
Nhân viên Bộ ngoại giao
Hoa Kỳ thăm gia đình mục sư Nguyễn Công Chính
Huỳnh Thục Vy
October 7, 20140 Bình Luận
October 7, 20140 Bình Luận
Được sắp xếp trước
nửa tháng qua sự liên lạc của Huỳnh Trọng Hiếu và Huỳnh Thục Vy với bà Jenifer
Neidhart de Ortiz – viên chức Chính trị Đại sứ quán Hoa Kỳ, sáng 7/10/2014, đại
diện Hội Phụ nữ NQVN – Huỳnh Thục Vy – đã đưa vợ và các con của mục sư Nguyễn
Công Chính đến gặp bà Katherine Lawson, nhân viên Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đặc
trách vấn đề tự do tôn giáo từ Washington, bà Jenifer từ Hà Nội và ông Charles
Sellers – trưởng phòng Chính trị Lãnh sự quán Hoa Kỳ từ Sài Gòn.
Vì lý
do an toàn và tránh sự quấy nhiễu, do gia đình mục sư Chính thường xuyên bị an
ninh theo dõi, chúng tôi đã gặp nhau tại khách sạn Hoàng Anh Gia Lai, thành phố
Pleiku, tỉnh Gia Lai trong không khí thân mật. Chị Trần Thị Hồng – vợ mục sư
Chính đã kể cho phái đoàn nghe về các hoạt động của ông cũng như tình trạng sức
khỏe rất kém của ông trong trại giam An Phước, huyện Phú Giáo, tỉnh
Bình Dương.
Những nhà ngoại
giao Hoa Kỳ tỏ ra đặc biệt quan tâm đến hồ sơ mục sư Nguyễn Công Chính. Tưởng
cũng nên nhắc lại, ông Chính là một mục sư Tin Lành thuộc giáo hội Lutheran
Việt Nam – Hoa Kỳ, đã từng chịu hàng chục đợt sách nhiễu, đánh đập, tịch thu
tài sản, phá cơ sở tôn giáo… từ nhà cầm quyền và công an tỉnh Kom Tum và Gia
Lai trong hơn hai mươi năm ông hoạt động truyền giáo, kết nối và hỗ trợ mọi mặt
cho những người sắc tộc thiểu số tại miền rừng núi Cao nguyên từ 1988 đến 2011.
Những nỗ lực của
mục sư Chính với tư cách người truyền giáo, cũng như người bảo vệ Nhân quyền
liên quan đến tự do tôn giáo, đặc biệt, ở những vùng xa xôi và nhạy cảm như Gia
Lai và Kom Tum đã đưa đến bản án 11 năm dành cho ông từ năm 2011.
Ông thường xuyên bị
đấu tố, đánh đập và cấm cầu nguyện trong tù. Trong bối cảnh quyền tự do tôn
giáo bị chà đạp nghiêm trọng trên khắp Việt Nam như việc giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, giáo Hội Tin Lành
Menonite và nhiều nhóm Tin Lành tại gia khác bị cấm hoạt động…tình trạng mục sư
Chính và giáo hội Lutheran của ông nổi lên như một vấn đề làm công luận phẫn nộ.
Bà Katherine Lawson
sang Việt Nam lần này nhằm quan sát tình trạng chính quyền Việt Nam đang gia
tăng những động thái đàn áp tự do tôn giáo khốc liệt và cản trở trắng trợn đặc
phái viên Liên Hợp quốc – ông Heiner Bielefeldt – tiếp cận các đại diện tôn
giáo bị đàn áp tại Việt Nam hồi tháng 7 vừa qua.
Chị Trần Thị Hồng
cho biết đây là lần đầu tiên chị được tiếp xúc với một phái đoàn ngoại giao
phương Tây để chia sẻ về tình trạng chồng mình và cũng là lần đầu tiên đại diện
của một tổ chức xã hội dân sự đến thăm gia đình chị để được nghe kể về những
tháng năm bị trù dập của vợ chồng chị trước ngày mục sư Chính bị bắt và bỏ tù.
Cuộc gặp gỡ cho
thấy hồ sơ mục sư Chính đã được báo cáo rất đầy đủ với các tổ chức Nhân quyền
quốc tế và những giới chức đặc trách vấn đề tự do tôn giáo ở Hoa Kỳ, vì ông là
một nhà hoạt động Nhân quyền kỳ cựu nhiều năm qua.
Hội Phụ nữ Nhân
quyền Việt Nam chúng tôi trân trọng kêu gọi sự quan tâm của công luận và các tổ
chức xã hội dân sự trong nước lưu tâm đến những hồ sơ nhạy cảm như trường hợp
mục sư Chính để hỗ trợ gia đình ông và thay ông tiếp tục những công việc bảo vệ
người thiểu số Cao nguyên mà ông đang làm dang dở.
Cũng trong dịp này,
Huỳnh Thục Vy đã gởi một bản báo cáo ngắn gọn ba trang về trường hợp “Hội đồng
Công luật Công án Bia Sơn” đến bà Katherine Lawson. Đây cũng là một trường hợp
vi phạm quyền tự do tôn giáo trắng trợn và gây hậu quả lớn cho các nạn nhân của
nhà cầm quyền Việt Nam.
Để liên lạc với gia đình mục sư Chính: Trần Thị Hồng, hẻm 186, đường Cách mạng tháng 8, tổ
10, phường Hoa Lư, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Số điện thoại: 0121.368.6961
Huỳnh Thục Vy
Thay mặt Ban điều
hành PNNQVN
Buôn Hồ 8/10/2014
Buôn Hồ 8/10/2014
Không Thể Hiểu Nam Hải là
Biển Trung Hoa hay Biển Nam Trung Hoa được: Tác Giả Cảm Ơn
Phạm Cao Dương, TS
October 4, 20140 Bình Luận
October 4, 20140 Bình Luận
LTS: Tuy tác giả, GS
Phạm Cao Dương khi gửi bài tới Toà Soạn chỉ ghi và ký đúng tên mình,
nhưng Việt Thức căn cứ vào tiểu sử
và nghề nghiệp của tác giả sẵn có trong hồ sơ quản trị và cộng
sự viên nên thấy cần minh bạch ghi học vị của tác giả như truyền thống các cơ
sở văn học và điều nghiên tại Hoa Kỳ và trên khắp thế giới tự do.
Không Thể Hiểu Nam
Hải là Biển Trung Hoa hay Biển Nam Trung Hoa được: Tác Giả Cảm Ơn
Sau khi bài này
được phổ biến, tác giả nhận được nhiều điện thư hay điện thoại, khen có và chê
cũng có. Tác giả xin được cảm ơn tất cả các Quý Vị, đặc biệt là các Quý
Vị đã chỉ ra một số chi tiết nên sửa đổi. Tác giả xin được muôn vàn cảm
tạ sự đóng góp tích cực và đầy thiện chí của tất cả mọi người.
[1] Trong số những
dữ kiện được nêu lên, dữ kiện quan trong nhất và mang nhiều ý nghĩa nhất là
chuyện đối đáp giữa sứ Tầu với Trạng Quỳnh và Đoàn Thị Điểm qua câu “An Nam
nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh” với nhóm chữ “bất tri kỷ nhân canh”:
§
nhiều vị đề nghị sửa nghĩa lại là “không biết bao nhiêu là người cầy”. Tôi
xin ghi nhận và sửa đổi điều này vì nó phản ảnh lối
nói “tục và đểu”, “đểu cáng và sấc sược”, “xỏ -xiên” của sứ Tầu.
§
Một vị còn cẩn thận phân tích từng chữ một theo đó chữ “tri” là đi với
chữ “bất” thay vì đi với chữ “kỷ” và giữa tri và kỷ không có gạch nối.
Đây là vấn đế ngắt câu hay ngắt chữ. Nhưng dù sao tôi cũng thích
lối giải thích này hơn vì nó mang nhiều ý nghĩa hơn, cả đen lẫn bóng thay vì
hiểu là tri kỷ.
§
Cũng vậy, về câu “Sấm động Nam Bang” có vị đề nghị phải sửa hai chữ
“Sấm động” thành “Lôi động” đúng hơn.
Tôi ghi nhận “Lôi động” hợp hơn.
Tuy nhiên rất khó mà nói chữ nào là đúng, chữ nào là sai. Lý do là vì đây
là truyện kể dân gian và truyền khẩu cũng giống như ca dao, tục ngữ chứ không
thuộc văn học viết của các nhà Nho để có thể có văn bản mà quyết định. Nói sao
cũng được. Người dân bình thường, không rành chữ Hán thì thích dùng chữ
“sấm”, còn các nhà Nho thì thấy nó không chỉnh nên bảo “lôi” mới đúng.
Vì nghe kể quen, tôi ưng đứng về phía đa số người dân bình thường hơn.
Có điều mục tiêu đơn giản của tôi trong bài này không phải là văn chương mà là
những danh xưng Bắc Quốc, Nam Bang được người trong truyện dùng.
[2]Về danh xưng
tiếng Pháp thì dù Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale, tôi xin thưa cả hai đều
có chữ Chine ở trong, trong khi
Nam Hải không hề hàm chứa chữ này.
§
Ngoài ra trong một vài sách địa lý dùng cho bậc tiểu và trung học ớ
Việt Nam buổi đầu, lúc chương trình học mới được Việt hóa, người ta đã dùng
danh xưng Biển Trung Hoa, Biển Nam Hải và các học sinh cũng cặm cụi, nắn nót
tên này khi vẽ bản đồ, trong số các học sinh đó có người viết bài này. Tại
sao vậy?
Tại vì các sách giáo khoa của Việt Nam buổi đầu và luôn cả khá lâu
về sau này là dịch từ sách Pháp sang. Các thày buổi đầu không có thì giờ
để cân nhắc suy nghĩ nhất là ở thời Chính Phủ Trần Trọng Kim, khi có lệnh dạy
và thi bằng tiếng Việt phải cấp tốc thi hành ngay trong năm 1945. Các
thày tối hôm trước soạn bài, sáng hôm sau dạy. Phải đọc các báo
đương thời như Tri Tân hay Thanh Nghị ta mới hiểu được những khó khăn, công lao và thiện
chí của các thày thời đó.
§
Về chuyện hiểu Nam Hải là biển của Nước Nam hay Nước Nam thì không
phải là tôi “cưỡng từ đoạt ý” mà là Cụ Cử Nhân Hán Học năm Bính Ngọ, 1906, Phan
Kế Bính, qua tác phẩm Nam Hải Dị Nhân Liệt
Truyện. đã hiểu như vậy. Nam Hải
Dị Nhân Liệt Truyện đã được Nhà Xuất Bản Sống Mới tái bản tại Hoa Kỳ.
Nhan đề sách là như vậy nhưng nội dung toàn là về các danh nhân Nước Nam, từ
các bậc đại anh kiệt, các danh thần, đến các bậc văn tài, mãnh tướng… toàn là
người Nước Nam. Cụ viết trong lời Tựa”“Nước Nam ta từ xưa đến nay, trải
hơn 4.000 năm chẳng thiếu gì người tài đức…” Vậy Nam Hải theo Cụ Phan Kế Bính
không là Nước Nam thì là gì? Chuyện này tôi đã viết trong bài. Xin
Quý vị vui lòng đọc lại.
[3] Về danh xưng
Biển Đông, tôi xin thưa là danh xưng này là tên chữ nôm nên trên các bản đồ cổ
bằng chữ Hán đã không được dùng cho mãi đến khi chữ Quốc Ngữ trở thành phổ
thông và nhất là khi có những tranh chấp ở Biển Đông.
§
Vấn đế này như tôi đã xác định từ đầu tôi không bàn tới trong bài này
nên không nói thêm, trừ một điều là danh xưng này dùng giũa người Việt với nhau
thì được nhưng ra các hội nghị quốc tế thì không ai hiểu cả cũng giống như Biển
Tây của Phi Luật Tân vậy.
§
Chính vì vậy trước đây tôi có viết một bài trong đó tôi có đề nghị
dùng danh xưng Biển Đông Nam Á, Southeast Asia Sea, thay thế cho tất cả, căn cứ
vào vị trí và vai trò của biển này giữa các nước Đông Nam Á, một vai trò
giống như vai trò của Địa Trung Hải đối vói Âu Châu và Phi Châu. Tôi sẽ
tìm lại bài này để gửi Việt Thức phổ biến sau.
[4] Về nguồn gốc
của danh xưng Nam Hải, tôi cũng xin không bàn ở đây vì đây là một đề tài phức
tạp khác cần một bài riêng. Tuy nhiên dù là của Tầu hay của ta, cái quan
trong là các cụ ngày xưa đã hiểu thế nào và hành xử thế nào theo lối riêng của
mình để xây dựng và bảo vệ đất nước của mình và truyền lại cho con cháu là
chúng ta bây giờ? Có điều đây chỉ là “ý kiến” chứ không phải là “sự kiện”
nên không thể nói đúng, sai.
[5] Để kết luận tôi
xin thưa là khi viết bài này tôi không hề nhằm khoe khoang kiến thức của mình
hay để khoe mình hay, mình giỏi để chỉnh sửa người khác mà chỉ để góp một phần
nhỏ vào nỗ lực đấu tranh của toàn thể dân tộc Việt Nam chống lại hiểm họa xâm
lăng mới trong thế kỷ hiện tại.
Đây là một cuộc xâm lăng toàn diện, vô
cùng nguy hiểm, nguy hiểm gấp bội những lần xâm lăng trước, của người Tầu bằng
cách đề cao tinh thần tự tin, tự lực, tự cường, ngoan cố coi phương Nam là của
mình, đối nghịch với phương Bắc là của người Tầu; nước mình là Nam Quốc, nước
Tầu là Bắc Quốc (chứ không phải là Trung Quốc). Hai bên bình đẳng với nhau,
không chút tự ti mặc cảm ngay từ những ngày đầu của lịch sử dân tộc.
Chính nhờ đó chúng ta đã ‘”đứng vững ngàn năm” và chắc chắn còn đứng vững nhiều
ngàn năm nữa. Tôi đã xác nhận mục đích này trong phần mở đầu và phần cuối
của bài viết. Ước mong quý vị đồng ý với tôi về điểm này.
Biển học mênh mông.
Những gì tôi biết chỉ là một phần rất nhỏ, vô cùng nhỏ về dân tộc ta và về nhân
loại và chưa chắc đã đúng, đã đầy đủ. Một sự điều chỉnh và cập nhật hóa
đều cần thiết. Không làm như vậy đầu óc tôi sẽ trở thănh khô cứng và…chế.
Với sự tin tưởng này tôi luôn luôn tìm tòi, học hỏi và sẵn sang chấp nhận.
Xin được một lần nữa cảm ơn Quý Vị độc giả đả bỏ thì giờ đọc bài của tôi và đã
chỉ giáo và bổ khuyết cho tôi.
Kính thư,
Phạm Cao Dương
Đầu Thế Kỷ XX, Xã Hội
Nông Sĩ Việt Nam Trên Đường Duy Tân: Vài Nhận Xét Về Cuộc Bút Chiến Giữa Phan
Khôi Và Trần Trọng Kim. Đối Chiếu Hai Xu Hướng Âu Hóa Việt Nam Không Thể Dung
Hòa
Trần Thanh Hiệp, LS
October 4, 20140 Bình Luận
October 4, 20140 Bình Luận
Ghi chú : Viết thay Gs Đoàn
Viết Hoạt tạm nghỉ một kỳ vì lý do sức khỏe. Nhưng không đi vào mạch tư tưởng
của Gs Hoạt mà chỉ cung cấp một tài liệu đọc thêm về đề tài mà ông đang
viết cho mục Lịch Sử Tư Tưởng Chính Trị Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Trần Thanh Hiệp
Nước Việt Mới Đầu
Thế Kỷ 20
Trong cuốn sách
Nhân Chủ Học Thuyết do Cơ sở xuất bản Việt Long ấn hành năm 2000 tại Houston,
người ta đọc thấy có nhắc tới một cuộc bút chiến giữa hai nhà nghiên cứu Phan
Khôi và Trần Trọng Kim về đường lối duy tân nước Việt Nam vào thời điểm đầu thế
kỷ trước.
Cuối thế kỷ XIX, sau những cuộc thảm bại của Phong trào Cần Vương và Phong Trào Văn Thân, và đầu thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa của Đề Thám ở Yên Thế bị dập tắt, Pháp đã hầu như hoàn thành quá trình bình định Việt Nam. Giới sĩ phu Nho học, cũng như lớp trí thức Tây học và dân chúng đều cảm thấy rằng đất nước có tìm được cách tự cường thì mới mong thóat khỏi ách nô lệ để giành lại độc lập quốc gia trong tay người Pháp.
Phan Bội Châu
Năm 1903, Phan Bội
Châu, một sĩ phu yêu nước người Nghệ AnvàoNam ra Bắc để thành lập một tổ chức
cách mạng,. Duy Tân Hội ở Quảng Nam, kết giao với các nhà yêu nước như Phan Chu
Trinh], Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức
Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện,
Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê Đại. Nhóm sĩ phu này đã chọn Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để, một người thuộc dòng dõi nhà Nguyễn, làm hội chủ. Năm 1905, Phan Bội
Châu cùng Đặng Tử Kính và Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi sang Nhật Bản để cầu
viện Nhật giúp Duy Tân Hội đánh đuổi Pháp.
Tại Nhật, các cụ gặp Lương Khải
Siêu, một nhà cách mạng người Trung Quốc, và được khuyên là nên dùng thơ văn để
thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Lại vcòn được nghe hai nhân vật
quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang cầm quyền ở Nhật Bản, là Bá tước Ôi Trọng Tín
(Okuma Shigenobu) và Thủ tướng Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi) khuyên là
nên cổ động thanh niên ra nước ngoài học tập để sau này về giúp nước.
Tháng 8
năm 190,5 tại Hà Tĩnh, cụ và các đồng chí nồng cốt trong Duy Tân Hội lên kế
hoạch hành động : đưa Kỳ Ngoại hầu Cường Để ra nước ngoài. lập các hội nông,
hội buôn, hội học làm kinh tài, tập hợp quần chúng chọn một số thanh niên thông
minh hiếu học, chịu được gian khổ, đưa đi học ở nước ngoài…Phong trào Đông Du
đưọc phát động từ đó và được đông đảo người dân ở cả ba kỳ, nhất là ở Nam Kỳ,
tham gia và ủng hộ. Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học trường
Chấn Võ. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật Bản du học lên tới
khoảng 200 người, sinh hoạt chung trong một tổ chức dưới danh xưng Cống Hiến
Hội…
Hai nhà nho khác,
cũng mang tính biểu tượng yêu nước canh tân như Phan Bội Châu l à Phan Chu
Trinh và Phan Khôi.
Phan Chu Trinh nổi
tiếng học giỏi, năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần
Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến,Phan Quang, và Phạm Liệu. Khoa Canh
Tý (1900), Phan Châu Trinh đỗ cử nhân. Năm sau (1901), triều đình mở ân khoa,
ông đỗ phó bảng, năm Quý Mão (1903)cụ được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ. Là người có
học vấn, lại tiếp xúc với nhiều người có tư tưởng canh tân. và đọc được các tân
thư, năm 1905, cụ từ quan, rồi cùng với hai bạn học là Trần Quý Cáp và Huỳnh
Thúc Kháng (cả hai đều mới đỗ tiến sĩ năm 1904) làm một cuộc Nam duxem xét dân
tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng.Sau cuộc Nam du, Phan Châu Trinh ra
Nghệ-Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội để gặp gỡ và hội ý với các sĩ phu tiến bộ, rồi lên
căn cứ Đề Thám quan sát tình hình, nhưng thấy khó có thể tồn tại lâu dài. Năm
1906 cụ bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến
rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây – trong số đó
có Lương Khải Siêu – và tìm hiểu công cuộc duy tân của Nhật Bản.
Trong số các sỹ phu
đương thời và cả sau này, Phan Châu Trinh là người thấy rõ nhất những nhược
điểm trong nền văn minh và trong con người Việt Nam. Do đó, cụ chủ trương phải
thay đổi từ gốc rễ là con người, cùng lúc với những yếu tố khác như văn hóa, ý
thức hệ, phong tục tập quán… Theo Phan Chu Trinh, Việt Nam phải phát triển kinh
tế và giáo dục để tự lực tự cường, hội nhập vào thế giới văn minh để giành độc
lập chứ không nên chỉ đi cầu viện ngoại bang rồi dùng bạo lực mong thâu hồi độc
lập. Chỉ như vậy, Việt Nam mới mong có một nền độc lập chân chính, lâu bền từ
chính trị đến kinh tế trong quan hệ với ngoại bang..
Mùa hè năm 1906,
Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức chữ Hán cho Toàn
quyền Paul Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền
Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt, sửa đổi chính sách cai trị
để giúp nhân dân Việt sớm trở thành văn minh.
Sau đó, và tư tưởng
dân quyền, Phan Châu Trinh cùng với phương châm “tự lực khai hóa” Huỳnh Thúc
Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc
duy tân . Khẩu hiệu của phong trào là: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Phan Khôi
Nhà nghiên cứu Lại
Nguyên Ân đã giới thiệu Phan Khôi như sau :
Phan Khôi hiện diện
trước xã hội, trước cuộc đời này chỉ với tư cách nhà báo; người ta biết ông chủ
yếu qua những gì ông viết ra đăng lên báo chí; nhưng, qua hoạt động báo chí,
Phan Khôi chứng tỏ mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn. Phan
Khôi là nhà tư tưởng đã đặt ra hàng loạt vấn đề: phê phán Khổng giáo, tiếp nhận
tư tưởng Âu Tây, nữ quyền. Ông cũng là một nhà Hán học và Trung quốc học am
hiểu những vấn đề của xã hội Trung Quốc đương thời, ông là một dịch giả đã dịch
Kinh Thánhcủa đạo Thiên chúa ra tiếng Việt, một nhà Việt ngữ học cả ở phần lí
thuyết lẫn thực hành, một nhà văn xuôi với thể hài đàm và một nhà phê bình văn
học. Có thể nói Phan Khôi là người thể hiện rõ nhất và thành công nhất chủ
trương duy tân kiểu Phan Chu Trinh vào đời sống, nhưng khác với người tiền bối
ấy, Phan Khôi hoàn toàn không thể hiện mình như một chí sĩ; ông sống như một
người thường trong đời thường, chỉ hoạt động chuyên nghiệp như một nhà ngôn
luận, chỉ tác động đến xã hội bằng ngôn luận. Phan Khôi thuộc trong số những
trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng tri thức và văn hoá cho xã hội Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XX, nhưng đặt bên cạnh những gương mặt sáng láng như
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Huỳnh Thúc Kháng…, ông thường tự
thể hiện như kẻ phản biện, và sự phản biện của ông thường đem lại chiều sâu mới
cho tri thức.
Vận động canh tân
đất nước không phải chỉ có các nho sĩ cựu học mà còn có những trí thức tân học
sớm tiếp thu được văn hóa phung Tạy, như Phạm Qùynh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng
Kim, Nguyễn Mạnh Tường v.v… Ở đây chỉ bàn sơ lược tới trường hợp Trần Trọng
Kim, người đã công khai tranh luận với nho sĩ cựu học Phan Khôi.
Trần Trọng Kim, nhà giáo dục, nhà
nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần, sinh năm 1883
(Quý Mùi) tại làng Kiều Linh, xã Đan Phố, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Trần Trọng Kim xuất
thân trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ ông học chữ Hán. năm 1897, ông theo
họcchữ Pháp tại Trường Pháp-ViệtNam Định. năm 1900, ông thi đỗ vào Trường Thông
ngôn và tốt nghiệp năm 1903. Năm 1905 qua Pháp học trường Thương mại ở Lyon.
Sau học thêm tại các trường ở Ardèche, Lyon rồi tiếp tục học ở Trường thuộc
địa. Năm 1909, vào học trường Sư phạm Melun và tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm
1911 rồi về nước.
Ông lần lượt dạy Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi), Trường
Hậu bổ và Trường nam Sư phạm. Ông là nhà sư phạm mẫu mực, có uy tín trong xã
hội, giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như:Thanh tra Tiểu
học (1921),Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), dạy Trường Sư
phạm thực hành 1931, Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939).
Từ thập niên 1910
đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử. Ngoài ra
ông còn tham gia các hoạt động xã hội. Ông là Phó trưởng ban Ban Văn học của
Hội Khai trí Tiến Đức, Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Trưởng ban nghiên cứu
Phật học của Hội Bắc kỳ Phật giáo.
Một cuộc bút chiến
không thể dung hòa về việc tìm đường Âu hóa.
1.Nguyên do có bút chiến.
Giữa năm 1930, trên
tờ báo Phụ Nữ Tân Văn, người ta đọc thấy bài viết “Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim” của Phan Khôi. Sự thực qua
bài viết này, Phan Khôi không có ý định gây bút chiến mà chỉ viết một bài điểm
sách : “Mới rồi, tòa soạn Phụ nữ tân văn giao cho tôi một cuốn sách mới
xuất bản, mà tác giả là Trần Trọng Kim tiên sanh đã gởi tặng, cậy tôi đọc qua
và viết một bài phê bình cho xứng đáng. Sách, tên là Nho giáo, dày 344 trang,
in thiệt đẹp, tại nhà in Trung Bắc Tân Văn… ”. Trước khi trình những nhận xét
của mình về tác phẩm của Trần Trọng Kim, Phan Khôi xác định : ” và “Trong khi
tôi viết bài nầy (…) là chỉ như kiểm soát lại coi thử cuốn sách ông Trần có
thiệt đúng với Nho giáo không; chớ còn, về cái ý kiến của ông Trần và của tôi
đối với Nho giáo thế nào, tôi không nói tới (…) tôi muốn chỉ ra một vài chỗ
không đúng (…).
Nhưng tôi dựa vào đâu mà dám nói là không đúng? Ấy, chẳng có gì
chắc chắn cho bằng lấy những chứng cớ trong sách họ Khổng ra mà đối cứu lại”.
Theo Phan Khôi, tác giả cuốn Nho
Giáo đôi
lúc đã “lầm lộn Khổng Tử với Tống Nho, (…) có chỗ không khỏi bị Tống nho qua
mặt mình”. Mặt khàc, vẫn theo Phan Khôi, đem các học thuyết Đông, Tây so sánh
với nhau thì nên làm nhưng không nên “đánh nhập vào một” các danh từ triết học
Đông, Tây với nhau.
Như trong danh từ triết học, tây có chữ “Intuition”, chỉ
nghĩa là sự biết thẳng, không cần phải suy nghĩ, phải lý luận. Chữ trong ấy
triết học Tàu không có, nên người Tàu phải dịch là “Trực giác”. Cũng như chữ
“Raison”, không có chữ sẵn, phải dịch “Lý tánh” hay là “Lý trí”.Vậy mà trong
sách Nho giáo, ở trang 23-24 và 31, tác giả cho “Lương tri” tức là “Trực giác”
và “Trí” tức là “Lý trí”.Chữ “Lương tri” xuất trong sách Mạnh Tử. Mạnh Tử nói
rằng: “Nhân chi… sở bất lự nhi tri giã, kỳ lương tri dã”. (Cái điều người ta
không cần suy nghĩ mà biết, ấy là lương tri). Cứ như ý nghĩa câu đó thì có hơi
giống với “trực giác” thiệt, nhưng vốn khác nhau xa ”.
Ngoài ra, Phan Khôi còn
cho rằng “có những chỗ mà Trần tiên sanh lấy ý mình cắt nghĩa Khổng giáo” (…)
Cái lẽ trung dung của Khổng Tử, nó ra làm sao, không có thể đem mà bàn luận ở
đây. Duy nói tóm một điều, tôi cho nó là lẽ cao siêu quá, người ta khó làm theo
được. Nếu đem cái lẽ trung dung mà truyền bá cho cái xã hội nầy thì hầu hết tín
đồ của nó sẽ thành ra “hương nguyện” là một hạng người mà Khổng Tử đã ghét cay
ghét đắng.
Cho nên trong bài Ảnh hưởng Khổng giáo của tôi, tôi bảo bỏ cái
thuyết trung dung đừng nói đến là hơn, vì theo nó thì chưa chắc làm được “thánh
hiền”, mà thiệt dễ làm ra “hương nguyện” quá (…). Sau hết, vẫn theo Phan Khôi,
“Khổng giáo không dung được với Tây học ngày nay vì có hai điều: một là cái vẻ
huyền học của Khổng giáo trái với khoa học; hai là cái chủ nghĩa tôn quân của
Khổng giáo trái với chủ nghĩa duy dân (démocra-tisme). Rồi tôi kết luận rằng ta
ngày nay theo Khổng giáo chỉ nên lấy nội cái phần tu thân để đạt đến cái mục
đích làm quân tử mà thôi; còn phàm những cái gì nghịch với hai cái của Tây học
kia thì nên bỏ đi, vì sự theo Tây học cần cho ta ngày nay lắm..”.
Bốn điểm phê bình
này của Phan Khôi đã đưa tới những phản ứng của Trần Trọng Kim. Trong Nhân Chủ Học Thuyết (Sđd, tr. 45-49), Trần Trọng
Kim đã phản bác như sau:
“Phan tiên sinh với
tôi cùng nhau đã được trò chuyện một đôi lần, tôi biết tiên sinh là người có học
thức và lại có nhiệt tâm về sự cải cách của xã hội ta. Nhưng tôi e rằng tiên
sinh nóng ruột quá nên vội muốn theo Tây học…”.
Trong khi Phan Khôi cổ võ cho
việc nên tư tưởng, lý luận theo “lô gích” Phương Tây thì Trần Trọng Kim lại đề
cao “trực giác”. Chữ này theo sự giải thích của Trần Trọng Kim, là một chữ mới
người Nhật dịch chữ “intuition” của Pháp để chỉ cái năng lực biết rất nhanh rất
rõ, hoặc về sự vật, hoặc về những điều quan hệ đến lý trí, đến đạo l ý. Bởi thế
nên hiểu chữ “intuition” theo ba nghĩa.
Nếu là trực giác về sự vật thì đó là
intuition sensible, trực giác đối với trí tuệ thì gọi là intuition
intellectuelle, trực giác đối với đạo lý là intuition morale. Vậy dùng chữ trực
giác mà chỉ nghĩa cho chữ lương tri tưởng cũng không là sai. Trần Trọng Kim nh
ấn mạnh “muốn tìm cái hệ thống của Nho giáo thì phải dùng trực giác mà xem,
phải lấy ý mà hội thì thấy cac các mối liên lạc trong đoạn lý tưởng, tuy về
phần hình thức thì lỏng lẻo, rời rạc nhưng về phần tinh thần thì suốt từ đầu
đến cuối chỉ là một mà thôi.
Ngay trong Tây học, người hiền triết như Pascal
cũng đã nói: Ta biết cái chân lý không những bởi lý trí mà còn bởi cái tâm nữa
(Nous connaissons la vérité, non seulement par la raison, mais encore par le
coeur)…và cái tâm có những lẽ của nó mà lý trí không biết được, (Le coeur a ses raisons que la raison ne connait point)”.
Trần Trọng Kim đã
bác bỏ ý kiến của Phan Khôi theo đó chủ nghĩa tôn quan trái với chủ nghĩa duy
dân [dân chủ, démocratisme] như sau:
“Khổng giáo đã có
cái chủ nghĩa chuyên chế thì tất là có cái chủ nghĩa duy dân [dân chủ]. Song
cái chủ nghĩa duy dân của Không giáo không giống cái chủ nghĩa duy dân của thời
nay. Cái chủ nghĩa duy dân của thời nay cốt ở sự bình đẳng, chính nghĩa là bình
đẳng trong luật pháp, nhưng nhiều người hiểu là bình đẳng hoàn toàn cả và cho
hạ dân cũng có quyền cai quản, cùng tham dự chính trị.
Cái chủ nghĩa duy dân ở
Khổng giao thì chủ ở trật tự, lấy đức lấy tài mà phân trên dưới và nhận có cái
trong luật pháp mà kh ông nhận có cái trong bình đẳng hoàn toàn khắp cả…. Vua
làm điều tàn bạo, dân có quyền trừ bỏ đi. Đó là cái chủ nghĩa duy dân của Khổng
giáo mà tôi cho rằng chính đáng hơn cả. Tôi dám chắc rằng Khổng gi áo không
trái với chủ nghĩa duy dân”.
Trần Trọng Kim kết
luận:
“Cái gì của ta hay
thì ta giữ lấy, cái gì ta không có thì ta đi học của người, làm thế nào cho ta
lớn lên được mà ta vẫn là ta, chứ không lẫn với người…Tôi vẫn biết Nho giáo như
ta đã thi hành ra tự xưa đến nay có nhiều điều dở. Nhưng cái dở đó là vì ng ười
mình không biết dùng lấy cái tinh thần mà chỉ khư khư giữ lấy cái cặn bã, không
biết tùy thời mà biến đổi…Gi ả sử ta bỏ hết nh ững cái vụn vặt cặn bã đó đi,
rồi ta rút lấy cái tinh thần gây nó lên cho mạnh mẽ thì biết đâu ta lại không
làm được việc rất đáng làm hay sao? Trước kia tôi cũng như Phan Quân, điều gì
của ta tôi cũng cho là dở, muốn bỏ đi cho hết, để đi lượm lặt của người mà thay
vào, sau dần tôi thấy những cái mình muốn lượm của người là những cái bã người
ta nhai chán đã muốn bỏ ra. Nếu mình lại chạy theo mà lượm lấy đem về làm của
qúy, thế chẳng hóa ra mình dại lắm ru!…”
2. Bút chiến để đối chiếu thâm tín
không phải để tìm chung quyết.Cuộc tranh luận giữa hai nhà nghiên cứu đã chỉ cho thấy sự
khác biệt giữa hai thâm tín về giá trị đích thực của Nho giáo. Nhưng nó đã
không ngã ngũ để vạch ra đường lối Âu hóa thích hợp để nước Việt Nam tự cường
hầu giành lại độc lập quốc gia.
Trần Thanh Hiệp
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền