Công an sau khi lấy cung
'Công an điều tra không được bắt người'
Luật sư Ngô Ngọc TraiGửi tới BBC từ Hà Nội
·
9 giờ trước
Liên quan đến vụ việc chai nước có ruồi, nhiều ý kiến chê trách
cách hành xử của tập đoàn Tân Hiệp Phát đã báo công an bắt giữ một khách hàng
là người sử dụng sản phẩm của hãng.
Đây là sự vụ
lùm xùm đã được nhiều chuyên gia pháp lý nêu ý kiến, có người cho rằng đây là
hành vi phạm tội cưỡng đoạt tài sản, có người cho rằng đây chỉ là quan hệ pháp
luật dân sự không phải tội phạm.
Tôi thì thấy
rằng qua sự việc này không nên quy định cho phép cơ quan công an điều tra được
quyền bắt người.
Quy định hiện tại
Bộ luật tố tụng
hình sự hiện tại quy định cho phép cơ quan công an điều tra sau khi tiếp nhận
tin báo tội phạm thì được quyền ra lệnh bắt khẩn cấp. Sau khi bắt cơ quan điều
tra phải báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn
12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn.
Viện kiểm sát
phải trả lời có đồng ý với việc bắt hay không, nếu không đồng ý thì cơ quan bắt
người phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
Việc bắt giam
giữ người là một biện pháp ngăn chặn mục đích nhằm ngăn ngừa nghi can bỏ trốn,
tiếp tục phạm tội hoặc tiêu hủy chứng cứ. Nhưng thực tế lâu nay việc bắt giam
giữ người đã vượt quá mục đích ý nghĩa đơn thuần chỉ là một biện pháp ngăn
chặn.
Chúng ta biết
rằng nghi can mặc dù bị bắt nhưng vẫn chưa bị coi là tội phạm. Luật đã quy định
rằng không ai bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết
tội của tòa án có hiệu lực pháp luật.
Như vậy mặc dù
bị bắt và bị hạn chế quyền tự do đi lại, nhưng các quyền tự do dân sinh khác
của người bị bắt vẫn còn, ví như quyền được đọc sách báo, xem ti vi, thăm gặp
người thân, ăn uống đủ dinh dưỡng, không bị đánh đập bởi người khác…
Vậy sau khi bị
bắt, người bị bắt có được đảm bảo các điều kiện đời sống dân sinh bình thường
hay không?
Nhưng thực tế
lâu nay có một vấn đề rất nghiêm trọng đó là điều kiện giam giữ người ở Việt
Nam tệ hại khiến cho người bị giam giữ chịu sự khổ cực về tinh thần và thể xác.
Việc bắt người
vốn dĩ chỉ tước đi quyền tự do đi lại của công dân song không chỉ đơn thuần như
vậy, do đặc thù điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam người bị bắt lại bị tước đi
hầu như hết các quyền dân sự, quyền con người bị xâm hại nặng nề khi sống trong
điều kiện giam giữ mà mọi thông số chỉ tiêu giá trị đều ở mức rất thấp.
Một ví dụ là
mấy năm trước tôi bảo vệ cho một người bị bắt giam ở trại tạm giam số 3 nằm
trên đường cầu Bươu thuộc Hà Đông, Hà Nội. Một lần vào lấy lời khai thấy chòm
râu cứng của người đó được chia làm hai nửa, một bên rất dài cứng còn một bên
lại trụi nhẵn. Hỏi ra thì được biết suốt ngày người đó bị mấy người giam giữ
cùng phòng đè ra nhổ râu giải trí cho đỡ buồn.
Điều đó là ví
dụ giúp hình dung cho thấy tình trạng điều kiện sức khỏe của người bị giam giữ
bị xâm hại như thế nào.
Còn theo một
bài báo mới đây trên báo Đất Việt có tiêu đề ‘Tội phạm tăng nhanh hơn dân số,
thiếu hàng ngàn chỗ giam’, bài báo đưa số liệu rằng so với quy mô đã được phê
duyệt, các trại tạm giam còn thiếu hơn 14.000 chỗ (tiêu chuẩn mỗi chỗ 2m2), tạm
giữ thiếu hơn 12.000 chỗ.
Bắt nhiều nên thiếu chỗ giam
Số liệu về việc
thiếu chỗ giam giữ người có thể hiểu một phần nguyên nhân vì số lượng người có
hành vi phạm tội quá nhiều, đó là minh chứng cho sự đổ vỡ của các chuẩn mực giá
trị đạo lý. Nhưng mặt khác cũng cần đặt ra vấn đề xem xét lại việc bắt giam giữ
lâu nay liệu đã đúng đắn hợp lý hay chưa?
Phải chăng có việc
bắt giam giữ cẩu thả bừa bãi, nhiều trường hợp không cần thiết bắt cũng bắt, và
tại sao lại để cơ quan công an điều tra được quyền bắt người?
Chúng ta biết
rằng công an điều tra là lực lượng chiến đấu có chức năng nhiệm vụ phòng chống
tội phạm, ở họ mang nặng tâm lý trạng thái triệt tiêu phòng ngừa. Nghề nghiệp
của họ ít đòi hỏi sự suy xét công tâm khách quan để cân nhắc sự cần thiết xác
đáng hay không trong việc bắt giam giữ, cái có ở nghề nghiệp của các thẩm phán.
Trước mỗi sự
việc còn chưa rõ ràng lý do cần bắt hay không, nếu quyền bắt thuộc cơ quan công
an thì họ sẽ có ngay quan điểm là cần bắt, điều này có nguyên nhân từ tâm lý
trạng thái nhận thức nghề nghiệp.
Mặt khác pháp
luật quy định rằng trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành
tố tụng, có nghĩa là nếu không chứng minh được tội phạm thì họ phải chịu trách
nhiệm nào đó.
Cho nên đương
nhiên dễ hiểu là cơ quan điều tra sẽ có xu hướng tìm giải pháp để hoàn tất cho
được trách nhiệm của mình và giải pháp chính là quyền được bắt người.
Có thể nói
quyền được bắt người là ‘phép mầu’ giúp làm ‘nhẹ gánh’ đi trách nhiệm chứng
minh tội phạm.
Cho nên cái
trách nhiệm chứng minh tội phạm mà lại đi kèm với cái quyền được bắt người thì
còn gì nữa mà khó hiểu cho việc thiếu chỗ giam giữ.
Cần sửa luật
Bộ luật tố tụng
hình sự đang được rà soát sửa đổi nên quy định rằng quyền quyết định bắt giam
giữ phải thuộc về tòa án, cơ quan điều tra muốn bắt người thì phải chứng minh
thuyết phục được thẩm phán về sự cần thiết và đưa ra các lý do xác đáng.
Khi xem một số
bộ phim hình sự của nước ngoài đôi khi chúng ta thấy trong nội dung phim nhiều
người phải vất vả lắm mới xin được ‘trát’ bắt của tòa.
Sự suy xét cẩn
trọng của tòa án là bờ đê bảo vệ các quyền công dân, ngăn ngừa bạo quyền, cái
mà nền tư pháp hình sự của ta còn mang nặng.
Cân nhắc quyết
định bắt người điều này cũng nằm trong chức năng xét xử phán quyết của tòa án.
Tức là cân nhắc xem liệu đã cần thiết hay chưa trong việc tước đi một số quyền
tự do của công dân.
Chúng ta cần
học hỏi nước ngoài về chế định bắt người. Hai nước gần gũi với ta là Hàn Quốc
và Nhật Bản đều quy định quyền bắt người thuộc về tòa án.
Hiến pháp Hàn
Quốc viết rằng: Trong trường hợp bắt, giam giữ, tịch thu tài sản hoặc khám xét
thì cần phải có lệnh của thẩm phán thông qua các thủ tục luật định và bất kỳ
người nào bị bắt hoặc bị giam giữ đều có quyền yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp
pháp của việc bắt hoặc giam giữ.
Hiến pháp Nhật
Bản viết rằng: Không bai bị bắt bớ mà không có sự cho phép của tòa án trong đó
chỉ rõ hành vi phạm tội trừ trường hợp đương sự bị bắt quả tang.
Một thí dụ điển hình
Trong vụ chai
nước có ruồi ngấp nghé giữa hành vi phạm tội cưỡng đoạt tài sản và quan hệ pháp
luật dân sự, nếu quyền bắt thuộc tòa án quyết định thì họ sẽ nhìn sự việc dưới
hai góc độ và cân nhắc có nên bắt hay không.
Để xét cơ sở
hợp lý cho việc bắt cũng không khó gì, chỉ cần làm rõ vài vấn đề: Ông Võ Văn
Minh người bị bắt là chủ quán ăn uống có nhân thân rõ ràng liệu ông có bỏ trốn
không? Ông sẽ bỏ trốn hay công khai đấu tranh chứng minh Tân Hiệp Phát sai và
bảo vệ yêu cầu của mình?
Liệu ông có
tiếp tục phạm tội không, chẳng lẽ ông lại tiếp tục đi tống tiền người khác hay
đi cướp?
Liệu ông Minh
có tiêu hủy chứng cứ nào không, chai nước có ruồi thì đã bị cơ quan chức năng
thu giữ rồi, mà nếu không thu giữ thì ông Minh cũng giữ lại để làm bằng chứng
bảo vệ mình chứ đời nào ông tiêu hủy.
Như thế có thể
thấy không có lý do xác đáng nào cho việc bắt giam, nhưng thực tế ông đã bị
bắt. Vì lý do rằng quyền bắt người nằm trong tay cơ quan công an điều tra chứ
không phải tòa án.
Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả, Trưởng
văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự ở Hà Nội.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền