3.000 công
nhân nhà máy BSE ở Nghệ An đình công
TRẠI TẬP TRUNG CẢI TẠO: MỘT KIỂU NHÀ TÙ MAN RỢ
NHẤT CỦA CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN...
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
RFA
13.02.2015
- In
trang này
- Chia
sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Công nhân nhà máy BSE ở Nghệ An trong một lần đình công trước đây.
(ảnh minh họa)
Courtesy photo
Chừng
3 ngàn công nhân hiện đang làm việc tại nhà máy điện tử BSE tại Khu Công nghiệp
Nam Cấm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An từ chiều hôm qua bắt đầu đình công đòi
hỏi tiền thưởng Tết và phản đối một số qui định mà họ cho là bất hợp lý từ phía
chủ công ty.
Một công nhân tham gia
đình công vào tối hôm qua cho Đài Á Châu Tự do biết như sau:
“Ba giờ được giải lao,
chúng tôi tập trung đình công trước văn phòng xếp Tổng đòi phát tiền thưởng Tết
trong ngày hôm nay và đòi một số quyền lợi khác nữa.
Cũng được khoảng 3
ngàn người. Tất cả chừng 6 ngàn công nhân nhưng chia làm hai ca, ca ngày hôm
nay đi làm và đình công. Hai tuần đổi ca một lần.
Công ty sợ một số
người nhận thưởng Tết xong rồi không đi làm nữa. Đúng là có những công nhân có
ý như thế và xếp tổng muốn khi nào nghỉ mới phát. Tuy vậy ngày mai là ngày 26
Tết, ngân hàng không làm việc nữa. Công nhân đòi hỏi hôm nay phải được nhận
tiền.
-Một công nhân
-Một công nhân
Lẽ ra tiền thưởng Tết
được nhận vào ngày 10 tháng 2, ngày nhận lương tháng này. Thế nhưng công ty sợ
một số người nhận thưởng Tết xong rồi không đi làm nữa. Đúng là có những công
nhân có ý như thế và xếp tổng muốn khi nào nghỉ mới phát. Tuy vậy ngày mai là
ngày 26 Tết, ngân hàng không làm việc nữa. Công nhân đòi hỏi hôm nay phải được
nhận tiền.
Ngoài ra công ty còn
bắt công nhân phải đi làm vào ngày chủ nhật này nhưng tính vào làm bù ngày
thường chứ không phải làm ngày chủ nhật. Mọi người đình công đòi phải cho nghỉ
đến ngày mùng 6 chứ không phải ngày mùng 5 đi làm.
Hôm nay chưa có kết
quả, ngày mai chúng tôi lên nếu như quyền lợi chúng tôi không được đáp ứng như
đòi hỏi chúng tôi lại đình công không làm tiếp. Vì những ngày gần Tết rồi bắt
đi làm ngày chủ nhật mà không được tính lương 2%, 3% mà phải làm bù nên chúng
tôi uất ức, khó chịu lắm.”
Người công nhân này cho
biết vào ngày mai công nhân cũng đến công ty nếu như những yêu sách của họ
không được ban giám đốc nhà máy đáp ứng, họ sẽ tiếp tục đình công.
Xin được nhắc lại, nhà
máy điện tử BSE tại Khu công nghiệp Nam Cấm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An do
Công ty Trách nhiệm Hữu Hạn Điện tử BSE vốn 100% Hàn Quốc đầu tư. Tổng vốn đầu
tư 30 triệu đô la. Nhà máy có diện tích 5,7 héc ta và qui mô sản xuất hằng năm
được cho biết 250 triệu sản phẩm mỗi năm.
Nhà máy BSE chuyên sản
xuất các mặt hàng điện tử như loa điện thoại, micro…
40 năm không tồn tại quyền sở hữu đất đai
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-02-11
2015-02-11
- In trang này
- Chia
sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Người dân Việt Nam trên thực tế đã không còn quyền sở hữu đất đai
mà chỉ được nhà nước giao quyền sử dụng đất.
RFA files
Người dân Việt Nam
trên thực tế đã không còn quyền sở hữu đất đai mà chỉ được nhà nước giao quyền
sử dụng đất.
Từ cải cách ruộng đất
ở miền Bắc tiếp đến đất đai sở hữu toàn dân sau khi Việt Nam thống nhất năm
1976. Đến nay Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có 3 lần công bố
Luật Đất đai, chỉnh sửa nhiều vấn đề kỹ thuật và câu chữ. Tuy nhiên người dân Việt
Nam trên thực tế đã không còn quyền sở hữu đất đai mà chỉ được nhà nước giao
quyền sử dụng đất.
Một bộ Luật về Đất đai
không rõ ràng
Luật Đất đai 1987 có
hiệu lực thi hành từ 1988, áp dụng trong thời kỳ đổi mới qui định: “Đất đai là
sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”. Đến năm 2003 Quốc hội Việt Nam
ra Luật Đất đai mới sửa lại thành: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu.” Qui định này được Quốc hội kéo dài hơn một chút trong
Luật Đất đai sửa đổi ban hành vào cuối năm 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn
dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền
sử dụng đất cho người sử dụng đất theo qui định của Luật này.”
Công luận Việt Nam
từng cho rằng, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã bỏ qua một cơ hội để sửa
đổi vấn đề sở hữu đất đai tạo đà phát triển kinh tế cho đất nước. TS lê Đăng
Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương từ Hà Nội
nhận định:
“Đúng là qui định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân là một qui định không rõ ràng. Bởi vì toàn dân không
phải là pháp nhân, toàn dân là ai bây giờ tất cả người dân ở đây thì sở hữu đất
đai và tài nguyên khoáng sản như thế nào không rõ. Người sở hữu đích thực Nhà
nước lại nói rằng mình chỉ có quyền sử dụng. Vì vậy cho nên không bảo đảm được
quyền sở hữu về tài sản mà một tài sản rất quan trọng là đất đai đã hạn chế rất
nhiều sự đầu tư của nông dân để tăng thêm độ phì cho đất đai, sự gắn bó của
người nông dân với đất đai và làm cho nông nghiệp phát triển.”
Đúng là qui định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân là một qui định không rõ ràng. Bởi vì toàn dân không
phải là pháp nhân, toàn dân là ai bây giờ tất cả người dân ở đây thì sở hữu đất
đai và tài nguyên khoáng sản như thế nào không rõ
TS Lê Đăng Doanh
Điểm chính từng gây
nhiều tranh cãi trong chính sách đất đai của Việt Nam được cho rằng, vì không
có quyền sở hữu đất đai thực sự và quyền sử dụng đất do Nhà nước cấp thì cũng
có thể bị Nhà nước thu hồi. Bên cạnh việc thu hồi đất vì các lý do liên quan
đến an ninh quốc phòng, Luật Đất đai 2013 vẫn tiếp tục qui định nhà nước được
quyền thu hồi đất để “phát triển kinh tế, xã hội, vì lợi ích công cộng.”
TS Lê Đăng Doanh nhận
định:
“Tôi nghĩ rằng sắp tới
đây hãy cố gắng làm sao hạn chế việc thu hồi đất với một cái giá thấp, rồi giao
lại cho các nhà đầu tư với giá rất cao để ăn chênh lệch giá, như vậy đã gây
thiệt hại rất nhiều cho người nông dân, người nông dân bị thiệt thòi và 65% sự
phản đối và sự khiếu kiện ở Việt Nam là liên quan đến đất đai và liên quan đến
nông dân. Đó là một tình hình hoàn toàn khác so với trước kia đảng Cộng sản
Việt Nam đã lấy đất của địa chủ để chia cho người nông dân. Tôi hy vọng sắp tới
đây vấn đề đó ngày sẽ càng được giải quyết một cách có hiệu quả hơn bằng cách
là trước khi lấy đất thì phải thỏa thuận với người nông dân, trao đổi thảo luận
với người nông dân rồi thì công bố công khai cả về giá cả, cả về nghĩa vụ của
cả hai bên và bên sử dụng đất phải có trách nhiệm nhiều hơn về việc tạo công ăn
việc làm và thu nhập cho người nông dân.”
Dù qui định như thế
nào trong các bộ Luật Đất đai qua các thời điểm 1987, 2003 và 2013 thì người
dân Việt Nam hoàn toàn không có quyền sở hữu đất đai kể cả mảnh ruộng hương hỏa
của tổ tiên. Nếu là đất thổ cư thì có quyền sử dụng ổn định lâu dài, còn đất
nông nghiệp thì có hạn chế về diện tích cũng như thời hạn sử dụng. Luật Đất đai
2013 có một số thay đổi cụ thể, như cho phép mở rộng diện tích ruộng đất đến
mức tối đa 10 lần hạn mức giao đất. Thí dụ hạn điền 3 héc-ta có thể tích tụ
thành 30 héc-ta. Thời hạn giao đất nông nghiệp từ 20 năm cũng được nâng lên 50
năm và có gia hạn.
Không công bằng, không
công khai minh bạch
Thử lắng nghe ý kiến
của một nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long về việc không có quyền sở hữu
thực sự đối với đồng ruộng của mình, cho dù thời hạn và diện tích có được nâng
lên.
Cố gắng làm sao hạn
chế việc thu hồi đất với một cái giá thấp, rồi giao lại cho các nhà đầu tư với
giá rất cao để ăn chênh lệch giá, như vậy đã gây thiệt hại rất nhiều cho người
nông dân
TS Lê Đăng Doanh
“ Vấn đề chủ sở hữu dù
cho là 20 năm hoặc 50 năm đi chăng nữa thì người chủ vẫn không phải là mình.
Nếu tôi có mở rộng thì chỉ giới hạn phần nào thôi. Nếu tôi tính 50 năm thì đời
mình qua rồi còn đời con đời cháu, dù mấy mươi năm tôi vẫn không phải là chủ
của tài sản của tôi, dù tôi xuất tiền ra mua nhưng tôi lại không làm chủ, cái
khó là khó như vậy.”
Một nông dân ở Nam
Trung Bộ, nơi rất ít ruộng đất cho nên tỏ ra không quan tâm gì đến sở hữu toàn
dân hay hay sở hữu cá nhân. Tuy nhiên nông dân này cho rằng Đảng đã nói đất đai
sở hữu toàn dân thì hãy làm tốt vấn đề này đó là sự công bằng xã hội.
Ông nói:
“Đất đai là sở hữu của
toàn dân thì người dân sinh ra nhà nước phải giải quyết chỗ ở, về mặt lý thuyết
về mặt chính sách về mặt Hiến pháp thì nói vậy. Nhưng khi người dân sinh ra,
nhà nước không giải quyết chỗ ở mà người ta phải bỏ tiền đi mua mà đất ở đâu
chính là đất cán bộ lợi dụng này nọ biến thể coi như bán cho người dân để
kiếm lời. Đảng CSVN cho đất là sở hữu toàn dân thì cơ bản ở chỗ là làm sao thực
hiện công bằng. Do sự không công bằng, không công khai minh bạch về vấn đề tài
nguyên đất đai cho nên mới sinh ra khiếu kiện.”
Ông Nguyễn Minh Nhị,
cựu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang một người rất am hiểu chính sách đất
đai của Đảng và Nhà nước và thực tế nông thôn đưa ra nhận định:
“về sở hữu cũng có ảnh
hưởng tâm lý tới vấn đề sản xuất lớn tức là qui mô đất đai, cái đó cũng ảnh
hưởng một phần nhưng không hoàn toàn là do vấn đề đó. Bởi vì hiện nay tuy rằng
sở hữu cá thể, sở hữu tư nhân không có trong đất đai, đó là nói trong hình thức
vậy thôi, thực chất bên trong 5 quyền nó cũng vậy thôi, tôi nghĩ vấn đề này
cũng không thật sự nghiêm trọng lắm. Nếu có là về mặt tâm lý mức độ thôi,
chớ bản thân người nông dân họ vẫn xem đất đó là của họ thôi.
Họ vẫn liên kết, vẫn
mở rộng diện tích, vẫn hợp tác, chủ yếu bây giờ có người cũng sở hữu cả trăm
héc-ta nhưng là đứng dưới tên gọi khác nhau của gia đình…chia chác vậy đó nhưng
chánh quyền cũng biết vậy. Cái sản xuất lớn vẫn làm được nhưng nói chung về
điều kiện pháp lý mà không rộng mở thì nó có hạn chế thì cái đó là điều tất
nhiên.”
Đối với một số nhân sĩ
trí thức, sự độc quyền cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đi kèm với chủ trương
đất đai sở hữu toàn dân. Một giải pháp khả thi là qui định đất đai đa sở hữu
trong đó có sở hữu Nhà nước được đề cập tới, nhưng bị Đảng bác bỏ.
Những bất cập về đất
đai sở hữu toàn dân và sự thu hồi đất không đền bù tương xứng theo giá thị
trường, từng gây ra những vụ phản kháng với hậu quả nặng nề. Thí dụ như vụ Đoàn
Văn Vươn ở Tiên Lãng Hải Phòng hay vụ Văn Giang Hưng Yên.
Vấn đề chủ sở hữu dù
cho là 20 năm hoặc 50 năm đi chăng nữa thì người chủ vẫn không phải là mình.
Nếu tôi có mở rộng thì chỉ giới hạn phần nào thôi. Nếu tôi tính 50 năm thì đời
mình qua rồi còn đời con đời cháu, dù mấy mươi năm tôi vẫn không phải là chủ
của tài sản của tôi, dù tôi xuất tiền ra mua nhưng tôi lại không làm chủ
Một nông dân
TS Phạm Sĩ Liêm, Phó
Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam trụ sở ở Hà Nội từng bày tỏ quan điểm:
“Về quyền sở hữu,
tôi vẫn tán thành là sở hữu công hay sở hữu chung, còn tên gọi thế nào tôi
không quan tâm, gọi là sở hữu nhà nước sở hữu toàn dân chỉ là cách gọi thôi.
Nhưng điều quan trọng hơn cả tên gọi của chế độ ấy là quyền sử dụng được luật
pháp bảo vệ như thế nào, hiện nay vẫn là điều chưa được nói rõ. Do đó việc tùy
tiện xâm phạm vào quyền sở hữu ấy đã diễn ra tương đối phổ biến, vì vậy chúng
tôi đề xuất Quốc hội Việt Nam nên sớm ban hành Luật Tài sản. Trong đó tài sản
bất động sản bao gồm cả quyền sử dụng đất và khi đã có quyền tài sản rồi thì có
cả quyền chiếm hữu hưởng lợi định đoạt đối với tài sản đó như là thông lệ quốc
tế ở các nước. Như vậy quyền sở hữu tài sản được bảo vệ, cần đưa ra luật riêng
về vấn đề này.”
Luật Đất đai 2013 hiện
hành được xem như là chắt lọc của gần 30 năm đổi mới, khi mà Việt Nam đã tiến
một bước khá xa so với thời kỳ nghèo đói, ngăn sông cấm chợ trong hơn 10 năm
sau ngày thống nhất. Tuy vậy những ai từng trông đợi một sự cải cách lớn lao
liên quan đến lãnh vực đất đai và quyền sở hữu thì đều đã hoài công. Luật Đất
đai 2013 hiện nay được ghi nhận là có một chút ít thay đổi về mặt kỹ thuật, về
nội dung câu chữ chặt chẽ hơn. Sự thay đổi được mô tả là có thể giảm bớt sự tùy
tiện của chính quyền địa phương trong vấn đề thu hồi đất và đền bù thu hồi đất.
Ngay từ khi Việt Nam
thống nhất về mặt pháp lý năm 1976 và đặt dưới sự độc quyền lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, khái niệm sở hữu tư nhân về đất đai xem như không còn tồn tại.
Trong một bài viết
trên báo Diễn đàn Doanh nghiệp, Luật sư Trương Thanh Đức, chuyên gia kỳ cựu về
pháp chế ngân hàng mô tả đất đai là vấn đề căn bản. Theo lời ông: “Cho dù người dân có quyền sở hữu hay
quyền sử dụng thì thực tế, đất đai vẫn luôn là khối tài sản quan trọng và có
giá trị nhất với hầu hết mọi người dân. Vì là khối tài sản quan trọng của mọi
người dân nên nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ quyền về tài sản đó bao gồm 3
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.”
Chúng tôi xin phép
mượn lời LS Trương Thanh Đức để kết thúc phóng sự này.
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền