Đăng ngày 05-05-2015 Sửa
đổi ngày 05-05-2015 16:54
Việt Nam : Dự luật tôn giáo "không đáp ứng yêu cầu của quốc
tế"
Một thánh lễ Công giáo ở Việt Nam. Dụ luật tôn giáo bị xem là vẫn
nhằm kiểm soát chặt chẽ các tổ chức tôn giáo như Giáo hội Công giáo.Reuters
Chính quyền Việt Nam hiện đưa ra thảo luận và lấy ý kiến về Dự
thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo, mà theo dự kiến sẽ được trình Quốc hội vào năm
tới. Nhưng đối với các tổ chức nhân quyền, bản dự thảo luật này không đáp ứng đúng
các yêu cầu của quốc tế về tự do tôn giáo. Sau đây mời quý vị nghe ý kiến của
ông Vũ Quốc Dụng, giám đốc điều hành tổ chức VETO, Mạng lưới các nhà bảo vệ
nhân quyền, tại Đức.
RFI : Thưa ông Vũ Quốc Dụng. Trước hết, theo ông dự thảo luật này có
thay đổi gì tốt hơn hay xấu hơn so với Pháp lệnh tôn giáo, Tín ngưỡng 2004
không?
Vũ Quốc Dụng :Trước hết, chương XI của dự thảo luật này là một điểm mới khi cho
phép người dân và các tổ chức tôn giáo có quyền khiếu nại về hành vi vi phạm
luật tôn giáo. Tuy nhiên tôi không thấy dự luật này qui định gì về tội danh và
hình phạt đối với kẻ vi phạm cho nên tôi nghi ngờ về tác dụng thực tế của việc
khiếu nại và tố cáo vi phạm.
Nhìn chung, tôi không thấy trong Dự thảo luật này một sự thay đổi
tổng quát về quan điểm tự do tôn giáo của chính quyền Việt Nam. Nó vẫn giữ quan
điểm của Pháp Lệnh, nghĩa là chính quyền phải kiểm soát chặt chẽ các tôn giáo
và việc này được thực hiện bằng đủ loại giấy phép, mà các tôn giáo ở Việt Nam
đã gọi là cơ chế XIN-CHO.
Theo tôi so với Pháp Lệnh, dự thảo luật này tỏ ra khắt khe hơn khi
chính thức thêm một loại đăng ký nữa. Đó là loại "đăng ký sinh hoạt tôn
giáo“ không thấy có trong Pháp lệnh hiện hành mà chỉ thấy có trong Nghị định 22
nằm dưới nó. Như vậy là Dự thảo Luật chính thức có đến 3 loại đăng ký: trước
nhất là „ đăng ký sinh hoạt tôn giáo“, rồi đến „ đăng ký hoạt động tôn giáo“,
và „ đăng ký tổ chức tôn giáo“. Đẻ ra càng nhiều loại đăng ký thì lại càng
nhiêu khê và càng tạo cơ hội cho chính quyền các cấp có cơ hội làm khó dễ các
tôn giáo.
Một nhận xét thứ hai là sự can thiệp khó chấp nhận được của chính
quyền vào nội bộ các tôn giáo. Có những 39 điều khoản của dự luật này qui định
từ việc tổ chức đại hội thường niên, thành lập hội nhánh, phong chức, bổ nhiệm,
tuyển người đi tu, v.v… Việc bắt phải được chấp thuận đăng ký thì mới được suy
cử, bầu cử người lãnh đạo tôn giáo, mới được đi tu cho thấy chính quyền thọc
sâu như thế nào vào việc điều hành nội bộ của các tôn giáo. Rõ ràng là các tổ
chức tôn giáo “chỉ được làm những gì đã được cho phép” và bị thắt xiết đến
nghẹt thở chứ không được tự do. Muốn tự do thì các tôn giáo phải được làm tất
cả những gì mà luật không cấm.
RFI : Dự thảo luật này có đáp ứng điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên không?
Vũ Quốc Dụng : Việt Nam tham gia vào Công ước quốc tế về Quyền Dân sự và Chính
trị (ICCPR) từ năm 1982 cho nên chúng ta phải dùng Điều 18 của công ước này về
Quyền Tự do Tư tưởng, Tự do Lương tâm hay Tự do Tôn giáo để qui chiếu. Ngoài
ra, chúng ta cần phải tham chiếu thêm Bản Bình luận Tổng quát về điều 18 ICCPR
này của Uỷ Ban Nhân quyền LHQ để hiểu rõ hơn về các qui định về tự do tôn giáo
trong luật quốc tế.
Sau khi tham khảo 2 văn bản nói trên tôi cho rằng dự thảo luật tôn
giáo, tín ngưỡng của Việt Nam đã vi phạm nhiều nguyên tắc căn bản của ICCPR. Vì
thời giờ không cho phép nên tôi xin nói vắn tắt về một vài điểm chính.
Thứ nhất là tầng khái niệm. Tôi cho rằng dự thảo luật đã đưa ra
những định nghĩa quá chật hẹp về tôn giáo hoặc tín ngưỡng với kết quả là loại
trừ rất nhiều tôn giáo hoặc tín ngưỡng ra khỏi vòng pháp luật. Đặc biệt, những
nhóm tôn giáo nhỏ, mới được thành lập hay bị chính quyền xem là bướng bỉnh sẽ
khó được chấp nhận. Thực tế của nhiều thập niên qua cho thấy việc đồng hóa
"tôn giáo“ với "tổ chức tôn giáo“ cũng như "tín ngưỡng“ với
"tín ngưỡng dân gian“ đã là nguyên nhân gây ra biết bao vi phạm quyền tự
do tôn giáo ở Việt Nam vì không phải tôn giáo nào cũng phải được tổ chức thành
một tổ chức và ngoài tín ngưỡng dân gian thì tín ngưỡng còn phải bao gồm cả
nhiều niềm tin hay thế giới quan khác nữa.
Thứ nhì là "quyền tự do theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng tự
chọn“ đã không được tách riêng ra trong dự thảo. ICCPR tách riêng nó ra vì nó
là một quyền tuyệt đối và không thể bị giới hạn trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả
khi đất nước có chiến tranh. Vì cho đến nay chính quyền Việt Nam vẫn bắt nhiều
người phải ký giấy bỏ đạo hoặc phải theo một tổ chức tôn giáo do chính quyền
qui định, cho nên việc tách riêng này không những phù hợp với ICCPR, mà còn
giải quyết được một nhu cầu cấp thiết của người có đạo nữa.
Thứ ba là dự luật đặt ra quá nhiều điều cấm, riêng điều 6 đã có
tổng cộng 12 điều cấm, với ngôn từ rất chung chung và dễ áp đặt tùy tiện như
"cấm lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo". Như thế nào là
"lợi dụng" thì chúng ta đã thấy qua những bắt giữ tùy tiện liên quan
đến điều 258 của Bộ luật Hình sự mà quốc tế đã nhiều lần phê phán. Tôi muốn nói
thêm rằng lý do "xâm phạm an ninh quốc gia“ trong dự luật này (điều 6,
khoản 5, điểm c) rõ ràng vi phạm ICCPR vì trong những lý do để giới hạn về
quyền tự do bày tỏ niềm tin tôn giáo hoặc tín ngưỡng được qui định tại điều 18
khoản 3 ICCPR không có điều nào liên quan đến an ninh quốc gia và tất cả các
văn bản diễn giải của LHQ đều nhấn mạnh đến điều này.
RFI : Dự thảo luật này có đáp ứng những khuyến nghị của Báo cáo viên Đặc
biệt về Tự do Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng của Liên Hiệp Quốc (BCV) vừa viếng thăm
Việt Nam hồi năm ngoái không?
Vũ Quốc Dụng : Khi đọc các khuyến nghị của ông BCV Heiner Bielefeldt tôi thấy
ông đặc biệt quan tâm đến 3 lãnh vực là đăng ký tôn giáo, tôn trọng điều ước
quốc tế và những điều cấm. Dự luật đã không thỏa mãn được cả 3 mối quan tâm
này. Tôi đã phê bình điểm thứ ba ở trên nên không nhắc lại nữa.
BCV quan niệm rằng việc thực thi quyền tự do tôn giáo không thể để
bị phụ thuộc vào một quyết định hành chánh là đăng ký hoặc cho phép. Do đó, BCV
đề nghị luật tôn giáo phải cho các tổ chức tôn giáo được chọn lựa giữa việc
đăng ký hay không đăng ký, và việc này không ảnh hưởng gì đến các hoạt động chủ
yếu của họ trong cộng đồng tôn giáo. Dự luật thì rõ ràng bắt họ phải đăng ký
nếu không thì sẽ bị chính quyền xem là hoạt động bất hợp pháp.
BCV đề nghị thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế. Như đã phân
tích ở trên dự thảo luật tôn giáo, tín ngưỡng đã vi phạm nhiều nguyên tắc căn
bản của ICCPR. Cho nên qui định tại Điều 5 về việc ưu tiên thực hiện điều ước
quốc tế khi có mâu thuẫn giữa điều ước quốc tế và luật Việt Nam chỉ là sự đãi
bôi. Thực ra Pháp lệnh tôn giáo, tín ngưỡng của năm 2004 cũng đã có điều khoản
tương tự (Điều 38) mà chẳng thấy ai thi hành. Hỏi công an thì công an bảo không
biết. Hỏi uỷ ban và tòa án nhân dân thì họ nói họ chỉ áp dụng luật Việt Nam mà
thôi.
Tôi nghĩ điều đầu tiên cần làm ngay là điều chỉnh tất cả các điều
luật cho phù hợp với luật quốc tế, rồi sau đó mới có thể ghi Điều 5 vào luật
được.
RFI : Dự thảo luật này có đáp ứng những khuyến nghị của Thủ tục Kiểm tra
Định kỳ Phổ quát (UPR) của Hội đồng nhân quyền LHQ hồi đầu năm 2014 không?
Vũ Quốc Dụng : Trong thủ tục UPR diễn ra hồi đầu năm ngoái, Việt Nam đã chấp nhận
9 khuyến nghị của các quốc gia thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ liên quan
đến quyền tự do tôn giáo. Tựu trung các khuyến nghị này xoay quanh việc sửa
luật, tuân thủ điều ước quốc tế, bảo đảm quyền tự do tôn giáo và giảm thiểu các
trở ngại hành chính.
Như đã phân tích ở trên, năm khuyến nghị liên quan trực tiếp đến
luật lệ tôn giáo đã chưa được phía Việt Nam thực hiện một cách thực tâm và có
thiện chí. Các quốc gia thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ chắc chắn sẽ
không thể thỏa mãn với những sửa chữa vá víu này.
Tôi hy vọng dự thảo này sẽ không phải là dự thảo cuối cùng về luật
tôn giáo từ nay đến cuối năm 2016 và những dự thảo sau sẽ cố gắng hội nhập với
quốc tế nhiều hơn nữa và sẽ thoáng hơn. Nhưng tôi nghĩ, điều tốt hơn cả sẽ là
không có luật tôn giáo, vì đặt ra luật là đặt ra sự kiểm soát và khống chế
quyền tự do. Việt Nam cần biết rằng các quốc gia khác không cần đặt riêng luật
tôn giáo mà các tôn giáo ở đó vẫn hoạt động ổn định hòa bình.
RFI : Xin cám ơn ông Vũ Quốc Dụng.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Nhân quyền và bạo quyền