Sunday, March 29, 2015

Vợ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa : « Tôi không bao giờ tuyệt vọng »

 
Đăng ngày 27-03-2015

Vợ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa : « Tôi không bao giờ tuyệt vọng »

media
Bà Nguyễn Thị Nga thay mặt chồng là nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhận giải Tự do Ngôn luận tại Oslo ngày 22/03/2015.DR

Nhân hội nghị thường niên ngày 21 và 22/03/2015 tại Oslo, Hội Nhà văn Na Uy đã trao Giải Tự do Ngôn luận 2014 cho nhà văn - blogger Nguyễn Xuân Nghĩa. Do đang trong thời gian quản chế, không thể rời Việt Nam, cho nên vợ ông là bà Nguyễn Thị Nga đã đến Na Uy thay mặt chồng nhận giải này.
Năm nay 65 tuổi, ông Nguyễn Xuân Nghĩa từng là hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng và là một trong thành viên ban điều hành Khối 8406, phong trào đấu tranh dân chủ được thành lập năm 2006 tại Việt Nam. Năm 2003 ông bị cấm đăng và xuất bản những bài viết của mình, vì đã có những hoạt động ủng hộ dân chủ.

Sau khi tham gia nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa bị bắt vào tháng 09/2008 trong đợt bắt bớ hàng loạt nhà hoạt động. Đến năm 2009, ông bị kết án 6 năm tù với tội danh « tuyên truyền chống Nhà nước ». Ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã được trả tự do sau khi mãn hạn tù vào tháng 09/2014, nhưng hiện còn bị quản chế tại gia trong 3 năm.

Vào năm 2011, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa đã được tổ chức nhân quyền Mỹ Human Rights Watch trao giải Hellman/Hammett, dành cho những người dấn thân vì nhân quyền. Năm 2013, khi còn đang ngồi tù, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa cũng đã được Hội văn bút Trung hoa độc lập chọn trao giải « Ngòi bút can đảm Lưu Hiểu Ba », cùng với một nhà văn Trung Quốc.

Sau khi thay mặt chồng nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Na Uy, bà Nguyễn Thị Nga có ghé qua Paris. Nhân dịp này bà đã dành cho RFI Việt ngữ một bài phỏng vấn ngắn.

Bà Nguyễn Thị Nga, vợ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa: 27/03/2015 nghe



__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Friday, March 27, 2015

Mỹ muốn VN có những bước tiến đáng kể về nhân quyền


Mỹ muốn VN có những bước tiến đáng kể về nhân quyền

Hải Ninh, phóng viên RFA
2015-03-25
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Mỹ muốn VN có những bước tiến đáng kể về nhân quyền Phần âm thanhTải xuống âm thanh
IMG_1610-622.jpg
Ông Ted Osius đại sứ Mỹ ở Việt Nam (bìa phải) và ông Phạm Quang Vinh đại sứ Việt Nam tại Mỹ (bìa trái) tại buổi gặp gỡ ở Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS, Washington DC, ngày 24/3/2015.
RFA
Your browser does not support the audio element.
Việt Nam muốn Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, trong khi đó, đổi lại Washington muốn Việt Nam có những bước tiến đáng kể về nhân quyền, một vấn đề mà Mỹ coi là mấu chốt trong việc thúc đẩy quan hệ hai bên đi xa hơn nữa.
Chiều 24/3 tại Washington DC, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS đã tổ chức một cuộc gặp giữa hai vị đại sứ: ông Ted Osius đại sứ Mỹ ở Việt Nam và ông Phạm Quang Vinh đại sứ Việt Nam tại Mỹ. Sự kiện này có sự tham gia đông đảo của báo giới, các tổ chức chính trị, xã hội ở Washington quan tâm tới mối quan hệ Việt - Mỹ.
Trong buổi nói chuyện này, hai ông đề cập tới một loạt tiến triển trong hợp tác giữa hai bên cũng như giải đáp những quan ngại được những người tới dự nêu ra.

Nhân quyền

Tôi nghĩ rằng quan hệ Việt - Mỹ sẽ không thể đạt được tới mức cao nhất nếu vấn đề nhân quyền không được giải quyết. Hiện tại, chúng tôi tập trung vào việc khuyến khích Việt Nam sửa đổi một số đạo luật về dân sự và hình sự để cho nhất quán với hiến pháp.
-Ông Ted Osius
Vấn đề được đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius coi là thách thức nhất và gây trở lại lớn nhất đối với quan hệ hai nước đó là nhân quyền. Ông Ted Osius thừa nhận Việt Nam đã có nhiều tiến triển trong vấn đề này song Việt Nam vẫn cần có những thay đổi nữa để giúp quan hệ hai nước đạt tới mức cao nhất có thể. Ông Ted Osius nói:
Tôi nghĩ rằng quan hệ Việt - Mỹ sẽ không thể đạt được tới mức cao nhất nếu vấn đề nhân quyền không được giải quyết. Hiện tại, chúng tôi tập trung vào việc khuyến khích Việt Nam sửa đổi một số đạo luật về dân sự và hình sự để cho nhất quán với hiến pháp bởi vì không phải tất cả các đạo luật và điều lệ bổ sung đều phù hợp với hiến pháp. Tôi không nghĩ nhân quyền là vấn đề dễ giải quyết. Tôi không nói rằng hai nước có chung quan điểm trên mọi khía cạnh. Cái quan trọng giờ đây là tiếp tục trao đổi và xem xét những điều ta có thể mở rộng hợp tác.”
Đại sứ Osius đưa ra ví dụ về những tiến triển trong vấn đề nhân quyền, chẳng hạn như việc Hà Nội đã thả nhiều tù nhân lương tâm trong 18 tháng trở lại đây hay quyền tự do tôn giáo và bày tỏ ý kiến chính trị đã được mở rộng một phần nào. Tuy nhiên, ông cho biết Hà Nội vẫn cần có nhiều thay đổi và hai bên vẫn bàn thảo hàng năm về vấn đề này.
Vấn đề nhân quyền từ lâu đã là khúc mắc trong quan hệ Việt - Mỹ. Trong cuộc họp mặt kéo dài một tiếng đồng hồ chiều 24/3 vừa rồi, ông Ted Osius nhắc đến nó không dưới ba lần, cho thấy Mỹ coi trọng vấn đề này như thế nào.
IMG_1611-400.jpg
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ (đứng) phát biểu tại buổi gặp gỡ giữa hai đại sứ Việt - Mỹ ở Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS, Washington DC, ngày 24/3/2015. RFA PHOTO.
Trong sự kiện của CSIS, một người tham dự là tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, cựu tù nhân chính trị của Việt Nam và đang sống lưu vong ở Mỹ. Ông này đã lên tiếng chỉ trích việc chính phủ Việt Nam xử lý vấn đề nhân quyền. Ông này đặt câu hỏi trong tương lai liệu chính phủ Việt Nam có thể chấm dứt việc bắt những người bất đồng chính kiến hoặc việc trao đổi tù nhân lương tâm lấy lợi ích về ngoại giao hay không.
Trái với đại sứ Ted Osius, đại sứ Phạm Quang Vinh tránh không nhắc tới vấn đề nhân quyền quá nhiều, ngoại trừ tái khẳng định việc Việt Nam không có tù nhân lương tâm. Ông nói rằng không có một nước nào giống nhau hoàn toàn, chính vì thế việc hai bên tiếp tục đối thoại về nhân quyền là cần thiết.

Vịnh Cam Ranh

Một trong những vấn đề các bên cùng quan tâm trong những ngày qua là việc Mỹ đề nghị Việt Nam không cho Nga sử dụng cảng Cam Ranh để tiếp nhiên liệu cho máy bay ném bom. Washington cho rằng Nga máy bay Nga tiếp nhiên liệu ở đây đã có những hành động khiêu khích gần Guam, nơi mà Mỹ đặt căn cứ không quân.
Trả lời về vấn đề này, đại sứ Phạm Quang Vinh tái khẳng định chính sách độc lập của Việt Nam trong quan hệ ngoại giao. Ông nói:
“Chúng tôi không cho phép mối quan hệ của chúng tôi với một quốc gia làm phương hại tới một nước thứ ba. Chúng tôi mở cảng này cho tất cả các nước về vấn đề hậu cần và nó không phải để làm phương hại tới một nước khác. Về máy bay Nga, chúng tôi không có thông tin về vấn đề này.”
Đại sứ Mỹ cũng khẳng định Washington tôn trọng những thoả thuận của Việt Nam với các nước khác và đổ lỗi cho Nga đã lợi dụng việc được sử dụng cảng Cam Ranh để có hành động khiêu khích. Ông nói:
“Chúng tôi nghĩ Nga đặt Việt Nam vào tình thế khó xử bằng việc lợi dụng những sự sắp xếp này mà thực hiện những hành vi khiêu khích. Vì thế chúng tôi nghĩ rằng lỗi ở đây là ở nước đã lợi dụng những sắp xếp từ trước này để thực hiện những hành vi khiêu khích trên.”
Cảng Cam Ranh có một địa thế quan trọng và từng là căn cứ quân sự của Pháp thời Pháp thuộc và của Mỹ thời chiến tranh Việt Nam. Sau khi Mỹ rời khỏi Việt Nam năm 1975, Liên Xô đã sử dụng cảng này và biến nó trở thành căn cứ hải quân lớn nhất của liên bang này ở nước ngoài. Hợp đồng này kết thúc năm 2002 song từ đó Nga vẫn được phép sử dụng cảng Cam Ranh.

Dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí

Việt Nam tất nhiên là muốn Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí. Nó cũng có một ý nghĩa biểu tượng về mặt chính trị. Năm nay, chúng ta kỷ niệm 20 năm bình thường hoá quan hệ, vì thế tất cả mọi vấn đề đều nên được bình thường hoá, bao gồm cả vấn đề cấm vận vũ khí.
-Ông Phạm Quang Vinh
Cũng trong cuộc trò chuyện này, đại sứ Việt Nam Phạm Quang Vinh cho rằng đã đến lúc Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, và cho rằng đây là một “biểu tượng chính trị". Ông nói:
“Việt Nam tất nhiên là muốn Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí. Nó cũng có một ý nghĩa biểu tượng về mặt chính trị. Năm nay, chúng ta kỷ niệm 20 năm bình thường hoá quan hệ, vì thế tất cả mọi vấn đề đều nên được bình thường hoá, bao gồm cả vấn đề cấm vận vũ khí.”
Mỹ dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam năm ngoái. Ông Ted Osius cho biết nhờ vào đó mà Mỹ đã có thể cung cấp cho Việt Nam một số tàu tuần tra tốc độ nhanh nhằm giúp cho công tác an ninh hàng hải. Tuy nhiên, phía Mỹ và Việt Nam chưa có một thoả thuận mua bán vũ khí nào do Mỹ còn là một đối tác mới và Việt Nam chưa hiểu rõ tiến trình thông qua việc mua bán vũ khí của Mỹ. Ông Ted Osius cũng khẳng định việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí hay không cho Việt Nam còn phụ thuộc vào việc Việt Nam có tiến triển gì trong giải quyết vấn đề nhân quyền hay không.

TPP, thương mại, giáo dục và các mặt hợp tác khác

Trong cuộc thảo luận chiều 24/3, hai đại sứ cũng nhắc tới Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Cả hai ông đều bày tỏ hy vọng sẽ hoàn tất các vòng đàm phán TPP trong năm nay.
Giáo dục là một mặt hợp tác có thể coi là thành công của Việt Nam và Hoa Kỳ. Theo ông Vinh, trước năm 1995, chỉ có 800 sinh viên Việt Nam theo học ở Mỹ. Tính đến nay, con số này đã lên tới 16.500 sinh viên, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đứng hàng nhất ở châu Á về số lượng du học sinh ở Mỹ.
Ngoài những vấn đề trên, hai đại sứ còn nhắc tới nhiều vấn đề hợp tác giữa hai bên như biến đổi khí hậu, khoa học, năng lượng, vân vân.
Hải Ninh tường trình từ Washington.



__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Thursday, March 26, 2015

Tin khẩn: Côn an tấn công Ms Nguyễn Hồng Quang và Hội thánh Mennonite



Tin khẩn: Côn an tấn công Ms Nguyễn Hồng Quang và  Hội thánh Mennonite
9h30 sáng nay, Mục sư Nguyễn Hồng Quang, Ms Lê Quang Du, Lê Quang Triệu (con trai của MS Quang) và 2 sinh viên lại bị một đám đông công an cả sắc phục lẫn thường phục hành hung dã man tại Bến Cát, Bình Dương, khiến Ms Quang và con trai ông bị thương nặng.
Ms Nguyễn Hồng Quang là mục sư quản nhiệm Hội thánh Mennonite Độc lập ở Sài Gòn. Ông là người rất độ lượng. Khi mấy anh em chúng tôi (Nguyễn Vũ Bình, Tụ Tinh Thần , Ngô Quỳnh) đến thăm ông hôm 18.3 tại Quận 9 Sài Gòn, ông tâm sự là mặc dù bị chúng đánh rất nhiều lần, để lại nhiều thương tích và di chứng trên người, nhưng ông vẫn không hề căm thù những kẻ đánh ông, bởi họ làm thế chỉ vì miếng cơm manh áo.
Mời mọi người nghe Ms Lê Quang Du tường thuật về vụ hành hung mà ông nhận xét là "quá tàn nhẫn" sáng hôm nay ở đây: https://www.youtube.com/watch?v=vdb0EPBMXhQ#t=209
Ảnh: Ms Nguyễn Hồng Quang bị công an hành hung một cách tàn bạo vào ngày 18.01.2015 khiến ông phải vào điều trị tại Bệnh viện Hoàn Mỹ, Sài Gòn để phẫu thuật chỉnh sửa xương mũi bị gãy và chẩn đoán bị tụ máu trong bụng.




Tuesday, March 24, 2015

TNLT Trần Vũ Anh Bình bị ‘kỷ luật nóng’


TNLT Trần Vũ Anh Bình bị ‘kỷ luật nóng’

Bà Nguyễn Thị Kim Liên, mẹ TNLT Đinh Nguyên Kha 
và anh Trần Văn Việt, anh TNLT Trần Vũ Anh Bình
VRNs (23.03.2015) – Sài Gòn 

Tù nhân lương tâm [TNLT] Trần Vũ Anh Bình bị cán bộ trại giam K3 Xuyên Mộc ‘kỷ luật nóng’ và ‘cưỡng bức, còng tay đưa đi đâu không rõ và không cho mang theo đồ đạc’ vào ngày 19.03.2015.

Ba TNLT khác là Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đặng Xuân Diệu tuyệt thực, chỉ uống nước đường từ ngày 19.03, để phản đối chế độ giam giữ bất nhân của cán bộ trại giam K3 Xuyên Mộc.

Thông tin trên được TNLT Đinh Nguyên Kha thông báo cho gia đình biết trong chuyến thăm nuôi vào ngày 22.03.2015.

Bà Nguyễn Thị Kim Liên – mẹ Nguyên Kha – cho biết: “Kha đã vượt qua mọi sự nguy hiểm để thông báo tình trạng của anh Bình cho gia đình. Hiện nay, Đặng Xuân Diệu là người yếu nhất, anh Trần Vũ Anh Bình bị khủng bố về tinh thần và thể xác. Trại giam cắt thăm nuôi của gia đình, không cho cháu Kha mua đồ ở căn tin. Cán bộ trại giam luôn tìm mọi cách hành hạ các tù nhân trong này”.

Anh Trần Văn Việt – anh trai Trần Vũ Anh Bình – cho hay: “Gia đình rất bức xúc khi nghe các thông tin của cô Liên kể lại. Đầu tháng 3 [trong chuyến thăm nuôi], gia đình nghe Bình nói là ngày 03.02 có tuyệt thực, để kiến nghị cán bộ mở cửa cho anh em được đi ra bên ngoài. Cán bộ trại giam [tự ý] vào phòng giam khám xét đồ và tịch thu cỗ tràng hạt của Bình nhưng không lập biên bản. [Với hành vi này] cán bộ trại giam đã vi phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo [của công dân]. Bình nói rằng có gửi cho gia đình tổng cộng 22 bài hát nhưng gia đình chỉ nhận được 4 bài hát thôi”.

Về tình trạng sức khỏe của Đinh Nguyên Kha, bà Liên xót xa: “Cháu Kha ốm yếu và mệt mỏi lắm”.
“Cán bộ giam 20 người –trong đó 10 người trong vụ án Công Án Bia Sơn, 2 người Khmer và 8 TNLT- biệt lập với những tù nhân khác, và cứ 2 người bị nhốt chung trong một căn phòng có diện tích 12m2. Đây là chiêu trò họ muốn chia rẽ anh em [khi] không bình đẳng trong giam giữ nên các TNLT đã phản đối, làm đơn khiếu nại gửi VKS Nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”, bà Liên cho biết thêm như vậy.

Trước đó, vào tháng 01.2015, các TNLT này đã làm đơn khiếu nại và gửi cán bộ với yêu cầu cải thiện chế độ lao tù, nhưng không được đáp ứng. Anh Đinh Nhật Uy – anh trai Nguyên Kha – cho biết ba yêu cầu mà các tù nhân này đưa ra là “Thứ nhất, được tiếp nhận thông tin, báo chí theo đúng quy định của pháp luật; Thứ hai, bình đẳng trong giam giữ; Thứ ba, yêu cầu được cung cấp thức ăn nước uống tử tế, bởi vì hiện nay, trại giam cung cấp cơm ‘ba tầng’ – nghĩa là một lớp cơm sượng, một lớp cơm nhão và một lớp cơm khét – cá để nguyên ruột không đánh vẩy, rau luộc có cả rác và rễ cây… Do đó, không còn cách nào khác anh em phải tuyệt thực. Nhưng cán bộ lại cho rằng, hành vi tuyệt thực của anh em vi phạm quy định của trại giam, nên họ quyết định kỷ luật anh em bằng cách không cho mua các nhu yếu phẩm ở căn tin. Khi đưa ra quyết định kỷ luật này, anh em không chịu ký vào biên bản, thì họ lại cho rằng, anh em chống lại cán bộ trại giam, nên các anh em tiếp tục bị kỷ luật”.

Bà Liên mong muốn: “Các gia đình của Bình, Hùng, Diệu và chúng tôi phải đoàn kết lại với nhau và mạnh mẽ lên, nếu mình không lên tiếng thì những người ở bên trong đó sẽ như thế nào?”

Còn gia đình TNLT Trần Vũ Anh Bình mong rằng: “Gia đình muốn kiến nghị đến các tổ chức Nhân quyền Quốc tế giúp cho anh em được tốt hơn. Tôi mong muốn giới chức trách [thi hành] Luật pháp phải có công bằng, chính sách nhà nước phải dung hòa với anh em tù nhân lương tâm, không được dùng bạo lực đối với họ”.

PV. VRNs



Monday, March 23, 2015

NGHĨA TRANG TỬ SĨ VNCH TẠI BUÔN MA THUỘT ĐANG BỊ HOANG HÓA !



-------- Original message --------
From: "Patrick03 Lew
Date:21/03/2015 9:15 AM (GMT+10:00)
To:
Cc:
Subject: [PhoNang] SAD NEWS : NGHĨA TRANG TỬ SĨ VNCH TẠI BUÔN MA THUỘT ĐANG BỊ HOANG HÓA !

 

NGHĨA TRANG TỬ SĨ VNCH TẠI BUÔN MA THUỘT ĐANG BỊ HOANG HÓA !


x

minh tran

4:01 PM (7 minutes ago)
to bcc: me



NGHĨA TRANG TỬ SĨ VNCH TẠI BUÔN MA THUỘT ĐANG BỊ HOANG HÓA !

Là cư dân TP. BMT sống ở đây gần 20 năm, nay mình mới phát hiện được ở thành phố này có một nghĩa trang tử sỹ VNCH!
Nghĩa trang này nằm trên đường Hà Huy Tập, cách giao lộ Hà Huy Tập - Lê Thị Hồng Gấm khoảng 100m phía bên trái theo hướng BMT đi huyện Cư M'gar.

Theo bác Cường, người hàng xóm của mình thì nghĩa trang này có trước năm 1963 (vì khi bác đến đây đã có nghĩa trang này) . Bác Thân bổ sung thêm thông tin đây là tử sỹ của Sư đoàn 23* QLVNCH.

Thoạt nhìn không ai có thể biết được trong khu đất kia là khu mộ của các tử sỹ VNCH bởi lối vào chỉ là con đường mòn do 2 gia đình dựng lều tạm phía trong để ở đi lại lâu ngày mà thành.
Phía bên tay trái con đường mòn đã bị cây cối xâm thực, các phần mộ không còn trông thấy rõ nữa! Phía phải con đường có khá hơn, tuy nhiên dân ở xung quanh nơi này trồng sắn, chuối lên trên cả những phần mộ nên cảnh nơi đây thật u ám!

Trưa nay, trên đường đi làm về, mình ghé thăm phần mộ của những người đã bỏ mình vì cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhưng kém may mắn bởi họ là bên thua cuộc!

Mình đã ngậm ngùi mà nghĩ rằng, dù hy sinh ở chiến tuyến nào chăng nữa thì những người xấu số này cũng là người VN da vàng máu đỏ! "Nghĩa tử nghĩa tận" ai lại nở để mộ phần hoang hóa, cô quạnh ko nhang khói như vậy?

Điều đáng trách hơn là dân ở đây lại trồng hoa màu lên trên những phần mộ xấu số mà họ không nghĩ rằng nếu người thân mình ở đâu đó trên đất nước VN lâm vào hoàn cảnh như những tử sĩ VNCH bị đối xử như vậy thì mình có đau xót?

Một số phần mộ có bia ghi năm sinh từ 1934 trở về trước, theo mình hiện nếu còn thân nhân chỉ là anh chị em ruột hoặc cháu họ của các bác ấy, chứ e vợ con thì không có vì lúc hy sinh còn quá trẻ!

Xin thành kính thắp nén hương dâng lên vong linh các bác, các chú. Cầu cho hương hồn của các tử sỹ VNCH được vãng sanh cực lạc!

P/S: Rất mong anh chị em share rộng rãi STT này để thân nhân của các vong linh tử sỹ có cơ hội tìm kiếm để nhang khói cho các bác!
Nếu có Mạnh thường quân nào đứng ra vận động quyên góp để dọn dẹp, chỉnh trang cho các phần mộ thì cũng là một việc làm có ý nghĩa về đạo đức và nhân văn lắm lắm!

Xin chân thành cảm ơn những tấm lòng vàng!

__._,_.___






http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=823810







TỔ CHỨC THEO DÕI NHÂN QUYỀN - HRW - ÚC TỐ CÁO NGUYỄN TẤN DŨNG VÀ NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN TRẦM TRỌNG


TỔ CHỨC THEO DÕI NHÂN QUYỀN - HRW - ÚC TỐ CÁO NGUYỄN TẤN DŨNG VÀ NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN TRẦM TRỌNG

Bài viết của bà Elaine Pearson, giám đốc Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Úc, đăng trên báo The Guardian. 
Elaine Pearson * Ngoc Nhi Nguyen  dịch - 

Ông Abbott có thói quen khen ngợi các chính quyền độc tài. Liệu có đối xử khác với Việt Nam? 

Khi Thủ tướng Úc ông Tony Abbott gặp gỡ đối tác Việt Nam là ông Nguyễn Tấn Dũng tại Canberra tuần này, ông sẽ chỉ đơn giản ca ngợi những tiến bộ kinh tế của Việt Nam trong khi vẫn im lặng về tình trạng nhân quyền tồi tệ của nước này chăng? Rất có khả năng là như vậy. Vì từ trước đến nay, chính phủ Úc có thói quen khen ngợi các quốc gia như Campuchia, Sri Lanka và Trung Quốc là "người bạn tốt" của Úc trong khi bỏ qua tình trạng nhân quyền tồi tệ của họ.

Video: CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU TỔNG BIỂU TÌNH CHỐNG VẸM NGUYỄN TẤN DŨNG ĐẾN ĂN MÀY TẠI ÚC


"Những người bạn" đó của chúng ta không nên được bỏ qua quá dễ dàng như vậy. Việt Nam là một trong số ít các quốc gia cộng sản độc đảng còn lại của thế giới. Trong 9 năm, Dũng đã giám sát việc đàn áp các quyền tự do cơ bản, kiểm duyệt phổ biến thông tin đại chúng, và kiểm soát tôn giáo. Hơn 100 tù nhân chính trị hiện vẫn đang ngồi tù tại Việt Nam.

Trong tù là những phụ nữ như cô Hồ Thị Bích Khương, 48 tuổi, một blogger và nhà hoạt động giữ đất, người đã tiếp xúc và thấu hiểu sự đau khổ của nông dân bị cướp mất đất, cho thấy sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam là trên xương máu của những nạn nhân vô hình này.

 Các nhà chức trách Việt Nam đã phản ứng với những nỗ lực của cô Khương bằng cách đàn áp và bắt bớ truy tố: cô đã phải nhiều lần vào tù ra khám, và hiện đang thụ án tù 5 năm cho "Tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam."

Elaine Pearson và Hồ Chí Minh
Một phụ nữ khác bị bắt giam là cô Mai Thị Dung, một nhà hoạt động Phật giáo. Chính phủ Việt Nam thường xuyên theo dõi và quấy rối các nhóm tôn giáo hoạt động ngoài định hướng của chính phủ. Nhóm Phật giáo Hòa Hảo độc lập của cô đã phải đối mặt với công an giám sát, xâm nhập và đe dọa. Các bản án của tòa qui kết cho cô tổng cộng tới 11 năm tù giam vì vai trò đấu tranh của cô trong các cuộc biểu tình của Phật giáo Hòa Hảo.

Chính phủ Úc cũng biết rõ các vấn đề khó khăn nguy hiểm mà các nhà hoạt động phải đối mặt như thế này. Úc đã từng đề cập đến các trường hợp tù nhân chính trị trong các diễn đàn như tại cuộc đối thoại nhân quyền Úc-Việt hàng năm. Nhưng những cuộc thảo luận kín giữa các quan chức cấp trung phần lớn chỉ là một sự trình diễn.

Thật vậy, như một sự sỉ nhục rất lớn đối với tinh thần của cuộc đối thoại nhân quyền, năm ngoái chính quyền Việt Nam đã ngăn cản một số nhà hoạt động nhân quyền tham gia một hội thảo về tự do báo chí mà chính chính phủ Úc đã góp phần tổ chức.

Cuộc đối thoại lần này, như cuộc đối thoại nhân quyền khác của Úc với Trung Quốc và Lào, khó tạo sự tin tưởng vì thiếu tính minh bạch về những gì đang thực sự được thảo luận, và là một thất bại về việc cung cấp các tiêu chuẩn công rõ ràng để đo lường thế nào là tiến bộ đáng kể về nhân quyền.

Việc đã có những buổi đối thoại (về nhân quyền) như vậy không có nghĩa là ông Abbott và bà Julie Bishop, cùng các bộ trưởng ngoại giao, nên né tránh những cơ hội đưa ra vấn đề này với Thủ tướng Dũng trong chuyến viếng thăm của ông. Ông Abbott đã nói rất nhiều về tầm quan trọng của quyền tự do ngôn luận ở Úc. Người dân Việt Nam đang rất cần những quyền tự do đó, đã bị chà đạp bởi chính phủ Việt Nam.

Ở bất kỳ phương diện nào thì Việt Nam đã có rất ít hoặc không có sự tiến bộ nào về các vấn đề như tự do ngôn luận và tự do tôn giáo, với những người chỉ trích chính phủ chắc chắn phải kết thúc trong tù vì sự bất đồng quan điểm của họ. Nếu các nhà lãnh đạo Úc không tiếp theo các cuộc thảo luận riêng (với các lãnh đạo Việt Nam) bằng những tuyên bố công khai về các vấn đề được nhiều người quan tâm, thì đó không chỉ là bỏ lỡ cơ hội, mà còn là một sự thất bại của nước Úc trong việc đấu tranh cho người Việt Nam đang còn bị đàn áp.

Đương nhiên nước Úc nên tìm cách có quan hệ tốt với các nước láng giềng. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là cần nâng cao mối quan tâm về quyền con người - vì nước Úc, là bạn bè của toàn bộ người dân Việt Nam, không chỉ là bạn bè của nhà cầm quyền Việt Nam.

Sự giao hảo dễ dãi với những nhà cai trị độc tài sẽ đem lại hậu quả không tốt cho toàn bộ người dân sống trong các quốc gia đó. Khi chính phủ Úc ca ngợi cựu Tổng thống Mahinda Rajapaksa Sri Lanka trong khi hạ thấp sự tàn bạo của chính phủ này trong cuộc chiến tranh dân sự của nước đó, đã tạo nên 1 cái bia chính trị để họ có thể núp sau đó đàn áp tiếp tục những người chỉ trích chính phủ và là thách thức trước các áp lực quốc tế đối với cuộc điều tra của Liên Hiệp Quốc vào những tội ác chiến tranh.

Với thất bại của Rajapaksa trong cuộc bầu cử cuối cùng, và chính phủ Sri Lanka mới đã lên tiếng chống lại sự im lặng của Úc về những vi phạm nhân quyền, Úc hiện nay đã ở phía sai của lịch sử. "Khi nhân quyền đã bị chà đạp, và dân chủ còn quá xa, các nước này đều im lặng. Đó là một vấn đề đối với Sri Lanka," thủ tướng mới Ranil Wickremesinghe đã cho biết như vậy trong tháng Hai.

Úc, tất nhiên, cũng có những thiếu sót của chính mình khá nghiêm trọng về quyền con người, bao gồm việc đối xử với những người tị nạn và người dân bản địa. Vấn đề nhân quyền của một quốc gia không phải là một cái cớ để bỏ qua hành vi vi phạm quyền con người ở nơi khác.

Những lời nhắn gửi công khai và riêng tư chuyển tải đến ông Dũng trong chuyến thăm này là rất quan trọng - quan trọng cho cả người dân Việt Nam lẫn các nhân viên chính phủ. Nâng cao sự quan tâm về nhân quyền không phải là "giảng dạy", mà ông Abbott chọn lựa không nói tới. Đó là về việc cần tham gia với một vị trí phù hợp và là nguyên tắc cơ bản về nhân quyền mà tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã đồng ý duy trì.

Bài gốc tiếng Anh:
__._,_.___

Posted by: =?UTF-8?B?QuG6rkMgS+G7siBC4bquQyBD4buk

47 năm sau thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế.


---------- Forwarded message ----------
From: BAN DIEU HOP 


Subject: Fwd: 47 năm sau thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế.

47 năm sau vụ thảm sát vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968 tại Huế đã được khơi lại tại trường đại học UC Berkeley California.
“Mourning Headband for Huế” Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, và Giáo sư Olgar Dror của phân khoa Lịch Sử tại Đại học Texas A&M University, đồng thời là dịch giả sách.
Tôi đã thêm vào bài viết này một số hình ảnh để minh chứng cho tội ác mà cộng sản VN đã thực hiện, không khác gì đám cuồn tín Hồi giáo ISIS hiện nay.


47 năm sau vụ tàn sát Tết Mậu Thân

Giải Khăn Sô Cho Huế tới UC Berkeley

image
Từ trái, Giáo sư Olgar Dror của phân khoa Lịch Sử tại Đại học Texas A&M University, đồng thời là dịch giả sách “Mourning Headband for Huế” đang thuyết trình về trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, với hình ảnh những hầm chôn người tại Huế xuất hiện trên màn hình. Trên bàn thuyết trình là Giáo sư Peter Zinoman của Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á thuộc Đại học UCBerkeley và nhà văn Nhã Ca, tác giả “Giải Khăn Sô cho Huế tại Huế”.

Như lịch sinh hoạt được loan báo từ trước, chiều Thứ Tư 25 tháng Hai 2015, buổi họp mặt với tác giả và dịch giả sách “Mourning Headband for Huế” –- Giải Khăn Sô cho Huế” đã khai diễn tại hội trường 180 Doe Library của Đại học UC Berkeley.

Sách “Mourning Headband for Hue” do Olga Dror dịch trực tiếp từ nguyên bản Việt ngữ “Giải Khăn Sô cho Huế” của Nhã Ca, được xuất bản bởi Indiana University Press và buổi “book event” tại UC Berkeley được tổ chức bởi Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á và do Giáo sư Peter Zinoman trực tiếp điều hợp chương trình.

Với hai diễn giả chính là Giáo sư Olga Dror, dịch giả, và nhà văn Nhã Ca, đây là lần đầu tiên, biến cô Huế Tết Mậu Thân 1968, trận chiến tranh cãi nhiều nhất trong cuộc chiến Việt Nam được nhìn lại toàn bộ bằng một cách nhìn khác, một quan điểm khác: quan điểm của người dân miền Nam.

Đây cũng là lần đầu tiên, hình ảnh và câu chuyện về cuộc tàn sát do cộng quân gây ra tại Huế Tết Mậu Thân bị công luận Mỹ lơ là được Giáo sư Olga Dror trình bầy chi tiết trong phần thuyết trình của bà.

Olga Dror là một trí thức Do Thái sinh ra và lớn lên tại Nga trong thời Sô-viết. Bà tốt nghiệp trường Leningrad State University chuyên ngành Văn Hóa Á Đông. Bà cũng từng là người phiên dịch Việt ngữ và làm công việc truyền thông tại Nga. Vào khoảng cuối thập niên 1980, trước khi Liên Xô sụp đổ, bà qua Do Thái và phục vụ trong ngành ngoại giao của quốc gia này.

Sau đó bà sang Hoa Kỳ và tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Lịch sử Đông Nam Á tại Cornell University. Hiện nay bà là Giáo sư tại Đại học Texas A&M.
Về phần Nhã Ca, xin mời đọc bài nói chuyện “Tiếng Kêu Tết Mậu Thân / Huế 1968 – Berkeley 2015.”

image
Từ trái: Giáo sư Peter Zinoman  giới thiệu tác giả Nhã Ca và dịch giả Olga Dror

Kính chào quí vị,
Hôm nay, với người Việt chúng tôi, vẫn còn là ngày Tết. Mùng Bảy Tết. Xin chúc tết theo truyền thống Việt Nam: “Kính chúc tất cả quí vị một năm mới Ất Mùi an lành.”
Và xin cám ơn UC Berkely. Cám ơnm Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á; Cám ơn Giáo sư Peter Zinoman và quí vị trong ban tổ chức.

Giáo sư Olga Dror, nhà nghiên cứu và giảng dạy về văn hoá lịch sử Việt Nam, đã trình bầy đầy đủ về biến cố Tết Mậu Thân và "Giải Khăn Sô cho Huế." Cám ơn Olga.
Thưa quí vị và các bạn,

Là người viết văn thường viết khi một mình, tôi chỉ quen viết, không quen nói. Sẽ không bao giờ có thể là diễn giả. Bài nói chuyện này được viết trước. Tôi viết tiếng Việt và nói bằng "văn viết".


Đây chính là tội ác của giặc cộng VN.
Tiếng Kêu Tết Mậu Thân

Hình như mỗi người đều có cuốn lịch riêng của mình, trong nhà hoặc trong đầu. Tôi biết mỗi tờ lịch có câu chuyện của nó, cả chuyện hôm qua, hôm nay, lẫn ngày mai. Câu chuyện của từng tờ lịch trong cuốn lịch chung được gọi là lịch sử.

Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất của lịch sử Hoa Kỳ trong thế kỷ 20.
Cuộc chiến ấy có cái bóng dài hơn là chính nó.

Đó là cái bóng của trận tổng tấn công Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968, do phía cộng sản thực hiện. Với những hầm chôn người và hàng ngàn thường dân Huế bị tàn sát, cái bóng oan khiên ấy ngày càng được nối dài. Dài hơn một trận đánh. Dài hơn cả cuộc chiến. Chưa biết đến bao giờ mới ngừng.

Là người sống sót từ trận chiến Tết Mậu Thân, tôi viết "Giải Khăn Sô cho Huế". Đây không phải tiểu thuyết hư cấu. Cũng chẳng phải văn chương thơ phú. Chỉ là chuyện thật, chuyện chạy bom chạy đạn. Chuyện mình, chuyện người. Mắt thấy tai nghe. Có sao viết vậy. Chỉ là những mảnh vỡ của một thành phố tan tác trong cảnh hỗn mang giữa máu lửa, chết chóc. Giáo sư Olga Dror gọi chúng là những "hình ảnh tức thì" của cuộc sống bị hủy hoại và vỡ nát. Bà "nghe" thấy tiếng nói từ loại hình ảnh này.

Là một trí thức Do Thái được sinh ra và lớn lên tại Nga từ thời Sô Viết, bà Olga đã rời khỏi đất nước này khi Liên Bang Sô Viết còn là một siêu cường. Hơn 10 năm sau khi chế độ Sô Viết đã sụp đổ, Giáo sư Olga Dror đã có dịp trở lại nước Nga. Năm 2012, trong một cuộc hội thảo về kinh nghiệm quan hệ giữa nước Nga và Việt Nam tổ chức tại Moscow, Olga thuyết trình về đề tài "Trận chiến Tết Mậu Thân tại Việt Nam và cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế." Nhưng nước Nga hậu Sô Viết vẫn không hề khác 25 năm trước. 

Thái độ của cuộc hội thảo với đề tài này là chỉ có thể đề cập tới "tội lỗi của phía Mỹ" trong trận chiến. Mọi lý lẽ khác bị dập tắt. Olga kể là sau đó, ngay chính trên đất Nga chứ không phải đâu khác, bà thấy mình quyết tâm hơn bao giờ hết, trong việc phải bảo vệ thứ tiếng nói từng bị vùi dập trong chiến tranh. Olga còn cho biết nguồn sức mạnh khích lệ bà trong quyết tâm này là những chuyện mà ông bà nội của bà đã phải chịu đựng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến tại Saint Peterbourg.


Năm 2012 là lúc người dịch và người viết "Giải Khăn Sô cho Huế" bắt đầu liên lạc làm việc với nhau. Nhưng khi sự việc trên đây xẩy ra, tôi không hề biết gì. Khi đó chúng tôi chưa quen nhau. Tôi không biết cuốn sách "Giải Khăn Sô cho Huế" đã cùng đi với Olga tới nước Nga ra sao. Chỉ biết Olga Dror là vị học giả uyên bác, người viết về Bà Chúa Liễu Hạnh của Việt Nam, một công trình nghiên cứu mà chúng tôi khâm phục. Ba năm liên lạc thư từ cùng làm việc, đã coi nhau là bạn, nhưng chỉ khi công việc đã xong, cầm cuốn sách anh ngữ trên tay, đọc bài của Olga, tôi mới biết chuyện này.

Điều mà Giáo sư Olga tìm thấy trong cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế, là "tiếng nói của người dân trong chiến tranh." Bà nói cuốn sách là cái nhìn cuộc chiến không qua cặp mắt của người lính hay chính trị gia, bình luận gia, mà qua cặp mắt của người dân không phe phái. Nó mô tả kinh nghiệm của những người dân bình thường.

Sau khi liệt kê đầy đủ và đối chiếu với các loại quan điểm khác nhau về trận chiến đã được nói lên từ nhiều phía, nhiều nơi, nhiều nước, Olga nhấn mạnh "Mourning Headband for Huế" là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân miền Nam Việt Nam. Với nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam, tiếng nói này hoàn toàn bị cấm kỵ. Tác giả từng bị bắt bỏ tù, cuốn sách từng bị đóng đinh và cho tới nay vẫn tiếp tục cấm đoán. Ngay tại Hoa Kỳ, tiếng nói của người dân miền Nam cũng chưa từng được lắng nghe. Sách viết về chiến tranh Việt Nam hầu hết đều phát xuất từ miền Bắc Cộng Sản.

Olga cũng nói đọc Nhã Ca trong Giải Khăn Sô cho Huế, có khi người ta nghe tiếng la thất thanh, tiếng kêu gào tới mức không còn ra tiếng nữa. Tôi biết đó là tiếng kêu từ Huế Tết Mậu Thân. Tiếng kêu của người dân miền Nam trong cuộc chiến.

Hôm nay, lần đầu tiên. tiếng kêu ấy được mang đến UC Bekerley.

Nhờ buổi họp mặt này, hai chị em chúng tôi được gặp nhau lần đầu. Cuốn sách chúng ta có hôm nay không chỉ là bản dịch. Phần chính của sách là công trình nghiên cứu nghiêm túc của Giáo sư Olga về tiếng nói của người dân trong trận tấn công 1968. Giải Khăn Sô cho Huế và Nhã Ca, với hàng trăm chú giải chi tiết kèm theo bản Anh ngữ do Olga thực hiện, chỉ còn là đề tài của công trình nghiên cứu.

Tha lỗi cho tôi, Olga.
Tôi đã đẩy sang vai bạn phần lớn gánh nặng.
Bạn đã lãnh dùm việc nhìn lại toàn bộ trận chiến Tết Mậu Thân tại Huế. Bạn cũng đã giới thiệu quá đầy đủ về cuốn sách, tác giả và tác phẩm. Phần tôi, chỉ xin góp thêm chuyện bên lề, lan man không thứ tự. Bắt đầu bằng...

Ký ức một thời về chiến tranh, khủng bố
Tôi ra đời cùng lúc với cuộc Đại Chiến Thế Giới lần thứ hai. Huế thời đó còn là kinh đô của các ông vua triều Nguyễn, nhưng cả nước đã trở thành thuộc địa của Pháp.
Năm 1937, quân Nhật tiến chiến nước Trung Hoa rồi tràn vào Việt Nam kéo theo bom đạn của thế chiến.

Từ thủa còn bé thơ, hai ba tuổi, tôi đã biết nếm mùi chiến tranh, bom đạn, nhà cửa bị đốt cháy, cả nhà phải chạy loạn, đi tản cư trên những chiếc ghe, người lớn chèo trối chết, thuận hoặc ngược dòng sông để lánh nạn.

Năm 5, 6 tuổi, có lần theo lũ trẻ chơi đùa trên sân đình làng quê, thấy một bãi máu nhuộm đỏ từ gốc cây sung, bọn trẻ chạy theo, lên thềm đình. Xác một người đàn ông bị cưa ra làm 3 khúc. Đầu treo trên cây, thân nằm giữa sân và tay chân sắp trên thềm đình. Người bị giết là một thợ rèn, hiền lành. Việt Minh giết.

Năm tôi 9 tuổi. Tại Huế, Việt Minh cướp chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị, con đường Nam Giao của Huế, nơi có nhiều vườn chùa êm ả bỗng dấy lên nhiều cảnh kinh hoàng. Lúc đó, tôi học ở một trường tiểu học tên là trường Nam Giao. Sáng sớm, mấy bạn trong xóm rủ nhau đi học, bọn con nít chúng tôi thường kinh hoàng la hét, khi thấy một cái đầu bị cắt đứt lìa từ cổ để trong một cái rổ tre với một miểng giấy ghi của Việt Minh lên án Việt gian. Có khi đầu lâu hay thân người, hay cánh tay, đùi chân đặt trên cái rá, cái thúng. Có người tứ chi bị cắt rời, thân bỏ vào bao bố, đầu để ra ngoài, hai con mắt mở trừng trừng, miệng còn dính máu đông, rất hãi hùng.

Nhưng rồi... có một lần, bạn tôi không la, không hét, không xô đẩy. Mà cũng như thấy xung quanh không hề có ai. Cũng không nhấc tay, dợm chân. Bạn đứng sững. Tuy còn là một đứa nhỏ, nhưng tôi biết "đứng như trời trồng" là lúc bạn đứng đó. Hai cái đầu được bày trên hai cái nón lá chính là ba và mẹ của bạn. Bạn ra sao lúc đó? Bạn cứ đứng vậy. Hai mắt bạn cũng trắng dã, trợn trừng như bốn con mắt không thể nhắm của ba mẹ bạn.
Tôi cũng đứng như vậy. Không nhấc nổi tay chân. Không mở miệng. Sau đó, người ta xua đuổi bọn con nít đi. Tôi lạc mất bạn.

Và rồi, Tết Mậu Thân 1968, chuyện tàn sát tập thể bằng cách chôn sống đã diễ ra tại Huế. Hàng ngàn dân Huế bị chôn ở Thành Nội, ở Gia Hội, ở Bãi Dâu, ở Phú Thứ, ở khe Đá Mài... Không chỉ trong núi trong rừng, nơi họ bị chôn còn là đất chùa, đất nhà thờ, đất trường học, và ngay tại vườn nhà.

Trong số những người bị chôn có chị Tâm Tuý, cô bạn trường Đồng Khánh của tôi. Khi xác được đào lên, thấy tóc mọc dài hơn, móng tay mọc dài hơn. Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống, như nhiều nạn nhân khác.

Trong cuộc hưu chiến đêm giao thừa mùng một tháng Giêng Tết Mậu Thân, nhằm ngày 29 tháng Giêng 1968, các đơn vị cộng quân -gồm cả quân chính qui Bắc Việt và dân quân địa phương- lặng lẽ tiến vào Huế, kiểm soát được khu Gia Hội trong 20 ngày. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi này, có tới 473 người Huế bị chôn sống.



Tiếng kêu Tết Mậu Thân từ "Giải Khăn Sô cho Huế" mới chỉ là những ghi nhận đầu tiên. Còn hàng ngàn tiếng kêu khác bao năm qua vẫn liên tục cất lên, ngay trên đất Hoa Kỳ. Xin kể một trường hợp mà chính tôi biết rõ: Ông Võ Trang, 56 tuổi, cư dân San Diego, một kỹ sư điện đang làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại đây, hồi tưởng việc bố của ông được mời đi "họp" chỉ 2 ngày trước khi quân đội quốc gia tái chiếm thành phố Huế. Ngày ấy, ông còn là một thiếu niên 15 tuổi. Sau đây là đoạn trích do ông Võ Trang viết:

"Trong khi tôi đang ngồi cạo chiếc ghế xích đu cũ để sơn lại thì bỗng có người vỗ vai tôi và hỏi nhẹ "Em ơi! Có ba ở nhà không?" Tôi bàng hoàng quay lại. Hai người, một dân quân áo bà ba quần cụt, một chính quy với dép râu và quân phục, nón cối màu vàng. Tôi hỏi lại họ muốn kiếm ai thì họ nói tên ba tôi rõ ràng. Chị giúp việc mà gia đình tôi vừa thuê vài tháng trước đã mở cửa sau cho họ. Tôi vào kêu ba tôi trong hầm giã chiến. Hết đường chạy rồi! Phòng chỉ có một cửa ra vào thì họ đã đứng chận. Ba tôi mặt tái xanh và không nói gì nữa. Trong hầm còn có một người em trai của me tôi, là một cảnh sát viên, đã khuyên ba tôi nên đi ra để họ khỏi xông vào bắt thêm những người họ không dự định. Me tôi đưa thêm chiếc áo len cho cho ba tôi mặc vào. Người anh thứ hai của tôi chạy theo xin đi thế nhưng họ không cho. Hôm đó là ngày 19 âm lịch tháng Giêng năm Mậu-Thân...

"Khoảng hơn một tuần sau, các hầm chôn người tập thể nằm phía sân sau của trường Tiểu Học Gia Hội được phát hiện. Xác người khi được khai quật, tuy chưa bị rữa nhưng đã sưng phồng lên và bốc mùi.

"Cái thây người được kéo lên để nằm ngửa người trên một u đất, miệng há hốc, mặt đen xám và dính đầy đất, hình ảnh mà cả cuộc đời tôi không bao giờ quên. Đó là ba của tôi. Những chứng cớ không thể chối cãi. Chiếc áo có vẽ 4 cái đầu của ban nhạc "The Beatles" bên ngực trái, là chiếc áo độc nhất vô nhị của anh tôi mà ba tôi rất thích. 

Hai chiếc tất (vớ) thêu lủng lỗ mà anh em chúng tôi đều biết được chia đều vào 2 túi quần. Rõ ràng là dấu hiệu ba tôi để lại cho gia đình nhận diện. Tôi không biết ba tôi đã vật vã như thế nào vào giờ phút đó nhưng me tôi và các anh em tôi thì vẫn đau đớn cho đến bây giờ...".

Võ Trang cho biết trong số người bị chôn có cả cô gái 19 tuổi ở cách nhà ông 2 căn. Người anh là một cảnh sát viên vắng mặt nhưng có tên trong danh sách được mời, cô em thay thế anh "đi họp"!

Và kể thêm: "Thảm sát tập thể như thế này cũng đã xảy ra ở Sịa, vùng quê gần Huế, vào năm 1947. trước khi rút lui vì nghe tin quân Pháp sắp trở lại, cộng sản kêu gọi dân chúng đi đào hầm chống Pháp. Những hầm này thật ra chính là những hầm chôn tập thể chỉ trong vài ngày sau đó. Theo lời chú tôi kể lại họ đi bắt người cả ban ngày và ban đêm. Ông Cố Nội của tôi, đã 70 tuổi cũng đã bị bắt đi vào ngày 17 tháng 2 nhằm ngày 20 Tết Âm Lịch. Lúc đầu người ta phát giác xác anh TH., một nhân vật có võ được biết trong làng, chết bên vệ đường với nhiều vết chém, đứt cả bàn tay. Rồi lần theo vết máu người ta tìm đến những hầm chôn người tập thể trong đó có cả Ông Cố Nội của tôi và em của Ông. Những vết cắt cho thấy họ bị chặt đầu bằng mã tấu!(1).


image
Nhà văn Nhã Ca và nhà giáo Trần Hạnh của UC Berkeley.

Và Đêm Huế 1970

Hai năm sau trận chiến Mậu Thân, họp mặt ra mắt sách "Giải Khăn Sô cho Huế" lần đầu tại Sàigòn, vớiù sự hiện diện của Hoà thượng Thích Trí Thủ, vị đại sư huynh của các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam. Sau đó toàn bộ số thu từ cuốn sách được mang về trao tặng trường trung học Đồng Khánh và Đại học Y Khoa Huế. Chuyến đi Huế lần này có sự tham dự của Linh mục Cao văn Luận, viện trưởng sáng lập Đại học Huế, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, các nhạc sĩ Phạm Duy, Cung Tiến. . .

Tại Huế vào thời điểm này, dân chúng ngày ngày đang lùng kiếm đào bới các hầm chôn người do cộng quân để lại, thành phố đổ nát đầy tang tóc. Đêm Huế 1970 cho tôi những hình ảnh nhớ đời.

Một buổi chiều, với chiếc xe Volkswagen, chúng tôi sang Thành Nội. Đây là chiếc xe của ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick để lại trong chung cư y khoa sau khi bị cộng quân bắt đi. Ông bà cùng hai vị bác sĩ người Đức khác là Raimund Discher và Bác Sĩ Altekoester là bốn bác sĩ người Đức sang giúp trường Y khoa Huế từ 1960. Cả bốn vị đều đã bị cộng quân bắt đi xử bắn.

Tại Thành Nội, chúng tôi có buổi ăn tối với các bạn ở trường Âm Nhạc Huế. Đây là nơi trú đóng của cộng quân trong cuộc giao chiến. Trong khu vườn nhà trường, có con mương dẫn nước chạy qua. Lúc đứng ở sân, người vợ của anh bạn giám đốc trường nhạc chỉ tay vào cái mương, nói là sau khi Việt Cộng đã rút chạy, anh chị trở lại đây, thấy xác binh sĩ Việt Cộng nằm chết xếp lớp dày đặc trong con mương.

Người chết không còn oán thù, có một mâm cơm, một bát nhang bày ở đó.

Trên đường lái xe về, trong đêm Huế thê long đâu đâu cũng thấy bầy bàn thờ nhang khói, chúng tôi có ngừng lại thăm một ngôi nhà có người cha người anh đã bị cộng sản chôn sống tại Gia Hội. Con em trong nhà mang áo xô gai, thay nhau cầm bó đuốc chạy quanh gốc cây trước nhà. Theo niềm tin của dân gian, những hồn chết oan không biết đường về nhà. Phải đốt đuốc hướng dẫn cho linh hồn lưu lạc biết đường mà trở về.

Có biết bao hồn oan trong trận chiến Huế Mậu Thân đang chờ ánh đuốc, cả hồn oan của những chiến binh miền Bắc bỏ xác trong mương nước thành nội.

Năm Ất Dậu, 1885, Pháp đã đưa quân vào Huế uy hiếp triều đình. Đêm 23 tháng 5 âm lịch, 30,000 quân Nam tấn công căn cứ Pháp tại Mang Cá nhưng bị đánh bại. Kinh thành thất thủ, đại thần Tôn Thất Thuyết phải mang Vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị mở phòng trào Cần Vương. Trong trận chiến này, hơn 1500 quân dân Huế bị tàn sát. Ngay từ năm Mậu Tuất tiếp theo, Huế lập Đàn Tưởng Niệm, xây thêm miếu Âm Hồn trong Thành Nội, hàng năm, đúng ngày giỗ, cả thành phố đều đốt nhang, làm lễ. Thực dân Pháp không cấm việc dân Huế tưởng niệm người chết. Cộng sản thì khác.

Huế Mậu Thân, số nạn nhân bị tàn sát nhiều gấp 5 lần, nhưng từ sau 1975, mọi đài tưởng niệm đều bị phá bỏ, dân chúng thì bị công an đến từng nhà truyền lệnh cấm tụ tập làm giỗ.
Hình ảnh bập bùng của những ngọn đuốc đêm Huế ấy bao năm vẫn chập chờn trong đầu tôi.

Thưa quí vị,
Năm Ất Mùi 2015, bốn mươi năm sau chiến tranh Việt Nam cũng là dịp kỷ niệm 20 năm bang giao Việt Mỹ.
Lịch sử có ghi là hai năm trước khi Nội chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc, tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đã chỉ định "một ngày tủi nhục quốc gia" cho nước Mỹ. Trong ngày này ông đã kêu gọi cả nước nhận chung "tội lỗi của chúng ta" và cùng nhau xưng tội, cầu nguyện sự tha thứ.

"Ngày tủi nhục quốc gia" được công bố tại Mỹ là ngày 30 tháng 3 năm 1863. Đã hơn 150 năm. Nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào vào tháng Tư năm 1865. Liên Bang nước Mỹ, với sự tôn trọng dành cho phía miền Nam- lá cờ miền Nam vẫn được treo, binh sĩ miền Nam vẫn giữ súng cá nhân, liệt sĩ Nam Bắc chung nghĩa trang, cả nước không có một cuộc diễn binh hay lễ hội mừng chiến thắng. Từ đó mà có được nước Mỹ ngày nay.

Sau Tết Ất Mùi, sang năm sẽ là Tết Bính Thân. Sắp thêm một năm Thân.

Chiến tranh Việt Nam, anh em một nhà bị đầy tới chỗ giết nhau, thù hận nhau. Tháng Tư 1975 của Việt Nam- sau tháng Tư của nước Mỹ 110- thêm cả triệu người miền Nam bị thủ tiêu, tù đày, chìm dưới đáy biển. Vậy mà cho tới nay, tại Việt Nam cũng như tại nhiều nơi, trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thấy nghĩ lại.

Trong bài "Tựa Nhỏ: Viết Để Chịu Tội" mở đầu sách Giải Khăn Sô Cho Huế, tôi có viêt rằng chính thế hệ chúng ta, thế hệ của tôi phải chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát Tết Mậu Thân cũng như cả cuộc nội chiến. Tầm nhìn thế hệ không phải phân biệt tả hữu, nam bắc. Sau đó là lời mời gọi cùng đứng trước bàn thờ ngày giỗ.
Khi viết lời tựa nhỏ cho bản in lần đầu "Giải Khăn Sô Cho Huế" vào năm 1969, tôi viết với niềm tin vào tương lai của Huế, tương lai Việt Nam.

Vào năm 2008, khi viết thêm ít dòng cho bản Việt ngữ của cuốn sách được tái bản ở Mỹ, tôi viết "Sẽ tới lúc phải có một bàn thờ chung, ngày giỗ chung tại quê hương, nơi từng biết thế nào là sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn hóa, lịch sử."
Và hôm nay, tại đây, vẫn với nguyên vẹn niềm tin xưa, tôi tiếp tục chờ đợi.

Những người Huế từng bị tàn sát Tết Mậu Thân xứng đáng được tưởng niệm.
Các thế hệ tương lai tại Việt Nam xứng đáng được nghe, được nghĩ, được nói điều chân thật, được hưởng một đất nước lành lặn, sạch sẽ. 

Ngày ấy sẽ tới.

Kính chào và cám ơn quí vị.

Nhã Ca

(1) Bài “Xuân Này Nhớ Xuân Xưa” của tác giả Võ Trang, sách “Viết Về Nước Mỹ” 2009.









__._,_.___

Posted by: truc nguyen 
VTV-[Trang Lê Mới Nhất] chửi từ nhà ra phố, Trọng Lú sợ vỡ mật

https://www.youtube.com/results?search_query=Trang+L%C3%AA+%28B%C3%A0+Ngo%E1%BA%A1i%29

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-19/11/2024

Popular Posts

My Blog List