---------- Forwarded message ----------
From: BAN DIEU HOP
Subject: Fwd: 47 năm sau thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế.
47 năm sau vụ thảm sát vào dịp Tết Mậu Thân năm
1968 tại Huế đã được khơi lại tại trường đại học UC Berkeley California.
“Mourning Headband for Huế” Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, và Giáo sư Olgar Dror của phân khoa Lịch Sử tại
Đại học Texas A&M University, đồng thời là dịch giả sách.
Tôi đã thêm vào bài viết này một số hình ảnh để minh chứng cho
tội ác mà cộng sản VN đã thực hiện, không khác gì đám cuồn tín Hồi giáo ISIS
hiện nay.
47 năm sau vụ tàn sát Tết Mậu Thân
Giải Khăn Sô Cho Huế tới UC Berkeley
Từ trái, Giáo sư Olgar Dror của phân khoa Lịch
Sử tại Đại học Texas A&M University, đồng thời là dịch giả sách “Mourning
Headband for Huế” đang thuyết trình về trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Huế,
với hình ảnh những hầm chôn người tại Huế xuất hiện trên màn hình. Trên bàn
thuyết trình là Giáo sư Peter Zinoman của Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á thuộc
Đại học UCBerkeley và nhà văn Nhã Ca, tác giả “Giải Khăn Sô cho Huế tại Huế”.
Như lịch sinh hoạt được loan báo từ trước,
chiều Thứ Tư 25 tháng Hai 2015, buổi họp mặt với tác giả và dịch giả sách
“Mourning Headband for Huế” –- Giải Khăn Sô cho Huế” đã khai diễn tại hội
trường 180 Doe Library của Đại học UC Berkeley.
Sách “Mourning Headband for Hue” do Olga Dror dịch trực tiếp từ nguyên bản Việt
ngữ “Giải Khăn Sô cho Huế” của Nhã Ca, được xuất bản bởi Indiana University
Press và buổi “book event” tại UC Berkeley được tổ chức bởi Trung Tâm Nghiên
Cứu Đông Nam Á và do Giáo sư Peter Zinoman trực tiếp điều hợp chương trình.
Với hai diễn giả chính là Giáo sư Olga Dror, dịch giả, và nhà văn Nhã Ca, đây
là lần đầu tiên, biến cô Huế Tết Mậu Thân 1968, trận chiến tranh cãi nhiều nhất
trong cuộc chiến Việt Nam được nhìn lại toàn bộ bằng một cách nhìn khác, một quan
điểm khác: quan điểm của người dân miền Nam.
Đây cũng là lần đầu tiên, hình ảnh và câu chuyện về cuộc tàn sát do cộng quân
gây ra tại Huế Tết Mậu Thân bị công luận Mỹ lơ là được Giáo sư Olga Dror trình
bầy chi tiết trong phần thuyết trình của bà.
Olga Dror là một trí thức Do Thái sinh ra và lớn lên tại Nga trong thời
Sô-viết. Bà tốt nghiệp trường Leningrad State University chuyên ngành Văn Hóa Á
Đông. Bà cũng từng là người phiên dịch Việt ngữ và làm công việc truyền thông
tại Nga. Vào khoảng cuối thập niên 1980, trước khi Liên Xô sụp đổ, bà qua Do
Thái và phục vụ trong ngành ngoại giao của quốc gia này.
Sau đó bà sang Hoa Kỳ và tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Lịch sử Đông Nam Á tại
Cornell University. Hiện nay bà là Giáo sư tại Đại học Texas A&M.
Về phần Nhã Ca, xin mời đọc bài nói chuyện “Tiếng Kêu Tết Mậu Thân / Huế 1968 –
Berkeley 2015.”
Từ trái: Giáo sư Peter
Zinoman giới thiệu tác giả Nhã Ca và dịch giả Olga Dror
Kính chào quí vị,
Hôm nay, với người Việt chúng tôi, vẫn còn là ngày Tết. Mùng Bảy Tết. Xin chúc
tết theo truyền thống Việt Nam: “Kính chúc tất cả quí vị một năm mới Ất Mùi an
lành.”
Và xin cám ơn UC Berkely. Cám ơnm Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á; Cám ơn Giáo
sư Peter Zinoman và quí vị trong ban tổ chức.
Giáo sư Olga Dror, nhà nghiên cứu và giảng dạy về văn hoá lịch sử Việt Nam, đã
trình bầy đầy đủ về biến cố Tết Mậu Thân và "Giải Khăn Sô cho Huế."
Cám ơn Olga.
Thưa quí vị và các bạn,
Là người viết văn thường viết khi một mình, tôi chỉ quen viết, không quen nói.
Sẽ không bao giờ có thể là diễn giả. Bài nói chuyện này được viết trước. Tôi
viết tiếng Việt và nói bằng "văn viết".
Đây chính là tội ác của giặc cộng VN.
Tiếng Kêu Tết Mậu Thân
Hình như mỗi người đều có cuốn lịch riêng của mình, trong nhà hoặc trong đầu. Tôi
biết mỗi tờ lịch có câu chuyện của nó, cả chuyện hôm qua, hôm nay, lẫn ngày
mai. Câu chuyện của từng tờ lịch trong cuốn lịch chung được gọi là lịch sử.
Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất của lịch sử Hoa Kỳ trong thế kỷ 20.
Cuộc chiến ấy có cái bóng dài hơn là chính nó.
Đó là cái bóng của trận tổng tấn công Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968, do phía
cộng sản thực hiện. Với những hầm chôn người và hàng ngàn thường dân Huế bị tàn
sát, cái bóng oan khiên ấy ngày càng được nối dài. Dài hơn một trận đánh. Dài
hơn cả cuộc chiến. Chưa biết đến bao giờ mới ngừng.
Là người sống sót từ trận chiến Tết Mậu Thân, tôi viết "Giải Khăn Sô cho
Huế". Đây không phải tiểu thuyết hư cấu. Cũng chẳng phải văn chương thơ
phú. Chỉ là chuyện thật, chuyện chạy bom chạy đạn. Chuyện mình, chuyện người.
Mắt thấy tai nghe. Có sao viết vậy. Chỉ là những mảnh vỡ của một thành phố tan
tác trong cảnh hỗn mang giữa máu lửa, chết chóc. Giáo sư Olga Dror gọi chúng là
những "hình ảnh tức thì" của cuộc sống bị hủy hoại và vỡ nát. Bà
"nghe" thấy tiếng nói từ loại hình ảnh này.
Là một trí thức Do Thái được sinh ra và lớn lên tại Nga từ thời Sô Viết, bà
Olga đã rời khỏi đất nước này khi Liên Bang Sô Viết còn là một siêu cường. Hơn
10 năm sau khi chế độ Sô Viết đã sụp đổ, Giáo sư Olga Dror đã có dịp trở lại
nước Nga. Năm 2012, trong một cuộc hội thảo về kinh nghiệm quan hệ giữa nước
Nga và Việt Nam tổ chức tại Moscow, Olga thuyết trình về đề tài "Trận
chiến Tết Mậu Thân tại Việt Nam và cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế." Nhưng
nước Nga hậu Sô Viết vẫn không hề khác 25 năm trước.
Thái độ của cuộc hội thảo
với đề tài này là chỉ có thể đề cập tới "tội lỗi của phía Mỹ" trong
trận chiến. Mọi lý lẽ khác bị dập tắt. Olga kể là sau đó, ngay chính trên đất
Nga chứ không phải đâu khác, bà thấy mình quyết tâm hơn bao giờ hết, trong việc
phải bảo vệ thứ tiếng nói từng bị vùi dập trong chiến tranh. Olga còn cho biết
nguồn sức mạnh khích lệ bà trong quyết tâm này là những chuyện mà ông bà nội
của bà đã phải chịu đựng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến tại Saint Peterbourg.
Năm 2012 là lúc người dịch và người viết "Giải Khăn Sô cho Huế" bắt
đầu liên lạc làm việc với nhau. Nhưng khi sự việc trên đây xẩy ra, tôi không hề
biết gì. Khi đó chúng tôi chưa quen nhau. Tôi không biết cuốn sách "Giải Khăn
Sô cho Huế" đã cùng đi với Olga tới nước Nga ra sao. Chỉ biết Olga Dror là
vị học giả uyên bác, người viết về Bà Chúa Liễu Hạnh của Việt Nam, một công
trình nghiên cứu mà chúng tôi khâm phục. Ba năm liên lạc thư từ cùng làm việc,
đã coi nhau là bạn, nhưng chỉ khi công việc đã xong, cầm cuốn sách anh ngữ trên
tay, đọc bài của Olga, tôi mới biết chuyện này.
Điều mà Giáo sư Olga tìm thấy trong cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế, là
"tiếng nói của người dân trong chiến tranh." Bà nói cuốn sách là cái
nhìn cuộc chiến không qua cặp mắt của người lính hay chính trị gia, bình luận
gia, mà qua cặp mắt của người dân không phe phái. Nó mô tả kinh nghiệm của
những người dân bình thường.
Sau khi liệt kê đầy đủ và đối chiếu với các loại quan điểm khác nhau về trận chiến
đã được nói lên từ nhiều phía, nhiều nơi, nhiều nước, Olga nhấn mạnh
"Mourning Headband for Huế" là quan điểm, là tiếng nói đích thực của
người dân miền Nam Việt Nam. Với nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam, tiếng nói
này hoàn toàn bị cấm kỵ. Tác giả từng bị bắt bỏ tù, cuốn sách từng bị đóng đinh
và cho tới nay vẫn tiếp tục cấm đoán. Ngay tại Hoa Kỳ, tiếng nói của người dân
miền Nam cũng chưa từng được lắng nghe. Sách viết về chiến tranh Việt Nam hầu
hết đều phát xuất từ miền Bắc Cộng Sản.
Olga cũng nói đọc Nhã Ca trong Giải Khăn Sô cho Huế, có khi người ta nghe tiếng
la thất thanh, tiếng kêu gào tới mức không còn ra tiếng nữa. Tôi biết đó là
tiếng kêu từ Huế Tết Mậu Thân. Tiếng kêu của người dân miền Nam trong cuộc
chiến.
Hôm nay, lần đầu tiên. tiếng kêu ấy được mang đến UC Bekerley.
Nhờ buổi họp mặt này, hai chị em chúng tôi được gặp nhau lần đầu. Cuốn sách
chúng ta có hôm nay không chỉ là bản dịch. Phần chính của sách là công trình
nghiên cứu nghiêm túc của Giáo sư Olga về tiếng nói của người dân trong trận
tấn công 1968. Giải Khăn Sô cho Huế và Nhã Ca, với hàng trăm chú giải chi tiết
kèm theo bản Anh ngữ do Olga thực hiện, chỉ còn là đề tài của công trình nghiên
cứu.
Tha lỗi cho tôi, Olga.
Tôi đã đẩy sang vai bạn phần lớn gánh nặng.
Bạn đã lãnh dùm việc nhìn lại toàn bộ trận chiến Tết Mậu Thân tại Huế. Bạn cũng
đã giới thiệu quá đầy đủ về cuốn sách, tác giả và tác phẩm. Phần tôi, chỉ xin
góp thêm chuyện bên lề, lan man không thứ tự. Bắt đầu bằng...
Ký ức một thời về chiến tranh, khủng bố
Tôi ra đời cùng lúc với cuộc Đại Chiến Thế Giới lần thứ hai. Huế thời đó còn là
kinh đô của các ông vua triều Nguyễn, nhưng cả nước đã trở thành thuộc địa của
Pháp.
Năm 1937, quân Nhật tiến chiến nước Trung Hoa rồi tràn vào Việt Nam kéo theo
bom đạn của thế chiến.
Từ thủa còn bé thơ, hai ba tuổi, tôi đã biết nếm mùi chiến tranh, bom đạn, nhà
cửa bị đốt cháy, cả nhà phải chạy loạn, đi tản cư trên những chiếc ghe, người
lớn chèo trối chết, thuận hoặc ngược dòng sông để lánh nạn.
Năm 5, 6 tuổi, có lần theo lũ trẻ chơi đùa trên sân đình làng quê, thấy một bãi
máu nhuộm đỏ từ gốc cây sung, bọn trẻ chạy theo, lên thềm đình. Xác một người
đàn ông bị cưa ra làm 3 khúc. Đầu treo trên cây, thân nằm giữa sân và tay chân
sắp trên thềm đình. Người bị giết là một thợ rèn, hiền lành. Việt Minh giết.
Năm tôi 9 tuổi. Tại Huế, Việt Minh cướp chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị, con
đường Nam Giao của Huế, nơi có nhiều vườn chùa êm ả bỗng dấy lên nhiều cảnh
kinh hoàng. Lúc đó, tôi học ở một trường tiểu học tên là trường Nam Giao. Sáng
sớm, mấy bạn trong xóm rủ nhau đi học, bọn con nít chúng tôi thường kinh hoàng
la hét, khi thấy một cái đầu bị cắt đứt lìa từ cổ để trong một cái rổ tre với
một miểng giấy ghi của Việt Minh lên án Việt gian. Có khi đầu lâu hay thân
người, hay cánh tay, đùi chân đặt trên cái rá, cái thúng. Có người tứ chi bị
cắt rời, thân bỏ vào bao bố, đầu để ra ngoài, hai con mắt mở trừng trừng, miệng
còn dính máu đông, rất hãi hùng.
Nhưng rồi... có một lần, bạn tôi không la, không hét, không xô đẩy. Mà cũng như
thấy xung quanh không hề có ai. Cũng không nhấc tay, dợm chân. Bạn đứng sững.
Tuy còn là một đứa nhỏ, nhưng tôi biết "đứng như trời trồng" là lúc
bạn đứng đó. Hai cái đầu được bày trên hai cái nón lá chính là ba và mẹ của
bạn. Bạn ra sao lúc đó? Bạn cứ đứng vậy. Hai mắt bạn cũng trắng dã, trợn trừng
như bốn con mắt không thể nhắm của ba mẹ bạn.
Tôi cũng đứng như vậy. Không nhấc nổi tay chân. Không mở miệng. Sau đó, người
ta xua đuổi bọn con nít đi. Tôi lạc mất bạn.
Và rồi, Tết Mậu Thân 1968, chuyện tàn sát tập thể bằng cách chôn sống đã diễ ra
tại Huế. Hàng ngàn dân Huế bị chôn ở Thành Nội, ở Gia Hội, ở Bãi Dâu, ở Phú
Thứ, ở khe Đá Mài... Không chỉ trong núi trong rừng, nơi họ bị chôn còn là đất
chùa, đất nhà thờ, đất trường học, và ngay tại vườn nhà.
Trong số những người bị chôn có chị Tâm Tuý, cô bạn trường Đồng Khánh của tôi.
Khi xác được đào lên, thấy tóc mọc dài hơn, móng tay mọc dài hơn. Bạn tôi bị
chôn sống khi còn đầy sức sống, như nhiều nạn nhân khác.
Trong cuộc hưu chiến đêm giao thừa mùng một tháng Giêng Tết Mậu Thân, nhằm ngày
29 tháng Giêng 1968, các đơn vị cộng quân -gồm cả quân chính qui Bắc Việt và
dân quân địa phương- lặng lẽ tiến vào Huế, kiểm soát được khu Gia Hội trong 20
ngày. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi này, có tới 473 người Huế bị chôn sống.
Tiếng kêu Tết Mậu Thân từ "Giải Khăn Sô
cho Huế" mới chỉ là những ghi nhận đầu tiên. Còn hàng ngàn tiếng kêu khác bao
năm qua vẫn liên tục cất lên, ngay trên đất Hoa Kỳ. Xin kể một trường hợp mà
chính tôi biết rõ: Ông Võ Trang, 56 tuổi, cư dân San Diego, một kỹ sư điện đang
làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại đây, hồi tưởng việc bố của ông được mời đi
"họp" chỉ 2 ngày trước khi quân đội quốc gia tái chiếm thành phố Huế.
Ngày ấy, ông còn là một thiếu niên 15 tuổi. Sau đây là đoạn trích do ông Võ
Trang viết:
"Trong khi tôi đang ngồi cạo chiếc ghế xích đu cũ để sơn lại thì bỗng có
người vỗ vai tôi và hỏi nhẹ "Em ơi! Có ba ở nhà không?" Tôi bàng
hoàng quay lại. Hai người, một dân quân áo bà ba quần cụt, một chính quy với
dép râu và quân phục, nón cối màu vàng. Tôi hỏi lại họ muốn kiếm ai thì họ nói
tên ba tôi rõ ràng. Chị giúp việc mà gia đình tôi vừa thuê vài tháng trước đã
mở cửa sau cho họ. Tôi vào kêu ba tôi trong hầm giã chiến. Hết đường chạy rồi!
Phòng chỉ có một cửa ra vào thì họ đã đứng chận. Ba tôi mặt tái xanh và không
nói gì nữa. Trong hầm còn có một người em trai của me tôi, là một cảnh sát
viên, đã khuyên ba tôi nên đi ra để họ khỏi xông vào bắt thêm những người họ
không dự định. Me tôi đưa thêm chiếc áo len cho cho ba tôi mặc vào. Người anh
thứ hai của tôi chạy theo xin đi thế nhưng họ không cho. Hôm đó là ngày 19 âm
lịch tháng Giêng năm Mậu-Thân...
"Khoảng hơn một tuần sau, các hầm chôn người tập thể nằm phía sân sau của
trường Tiểu Học Gia Hội được phát hiện. Xác người khi được khai quật, tuy chưa
bị rữa nhưng đã sưng phồng lên và bốc mùi.
"Cái thây người được kéo lên để nằm ngửa người trên một u đất, miệng há hốc,
mặt đen xám và dính đầy đất, hình ảnh mà cả cuộc đời tôi không bao giờ quên. Đó
là ba của tôi. Những chứng cớ không thể chối cãi. Chiếc áo có vẽ 4 cái đầu của
ban nhạc "The Beatles" bên ngực trái, là chiếc áo độc nhất vô nhị của
anh tôi mà ba tôi rất thích.
Hai chiếc tất (vớ) thêu lủng lỗ mà anh em chúng
tôi đều biết được chia đều vào 2 túi quần. Rõ ràng là dấu hiệu ba tôi để lại
cho gia đình nhận diện. Tôi không biết ba tôi đã vật vã như thế nào vào giờ
phút đó nhưng me tôi và các anh em tôi thì vẫn đau đớn cho đến bây giờ...".
Võ Trang cho biết trong số người bị chôn có cả cô gái 19 tuổi ở cách nhà ông 2
căn. Người anh là một cảnh sát viên vắng mặt nhưng có tên trong danh sách được
mời, cô em thay thế anh "đi họp"!
Và kể thêm: "Thảm sát tập thể như thế này cũng đã xảy ra ở Sịa, vùng quê
gần Huế, vào năm 1947. trước khi rút lui vì nghe tin quân Pháp sắp trở lại,
cộng sản kêu gọi dân chúng đi đào hầm chống Pháp. Những hầm này thật ra chính
là những hầm chôn tập thể chỉ trong vài ngày sau đó. Theo lời chú tôi kể lại họ
đi bắt người cả ban ngày và ban đêm. Ông Cố Nội của tôi, đã 70 tuổi cũng đã bị
bắt đi vào ngày 17 tháng 2 nhằm ngày 20 Tết Âm Lịch. Lúc đầu người ta phát giác
xác anh TH., một nhân vật có võ được biết trong làng, chết bên vệ đường với
nhiều vết chém, đứt cả bàn tay. Rồi lần theo vết máu người ta tìm đến những hầm
chôn người tập thể trong đó có cả Ông Cố Nội của tôi và em của Ông. Những vết
cắt cho thấy họ bị chặt đầu bằng mã tấu!(1).
Nhà văn Nhã Ca và nhà giáo
Trần Hạnh của UC Berkeley.
Và Đêm Huế 1970
Hai năm sau trận chiến Mậu Thân, họp mặt ra mắt
sách "Giải Khăn Sô cho Huế" lần đầu tại Sàigòn, vớiù sự hiện diện của
Hoà thượng Thích Trí Thủ, vị đại sư huynh của các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt
Nam. Sau đó toàn bộ số thu từ cuốn sách được mang về trao tặng trường trung học
Đồng Khánh và Đại học Y Khoa Huế. Chuyến đi Huế lần này có sự tham dự của Linh
mục Cao văn Luận, viện trưởng sáng lập Đại học Huế, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, các nhạc
sĩ Phạm Duy, Cung Tiến. . .
Tại Huế vào thời điểm này, dân chúng ngày ngày đang lùng kiếm đào bới các hầm
chôn người do cộng quân để lại, thành phố đổ nát đầy tang tóc. Đêm Huế 1970 cho
tôi những hình ảnh nhớ đời.
Một buổi chiều, với chiếc xe Volkswagen, chúng tôi sang Thành Nội. Đây là chiếc
xe của ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick để lại trong chung cư y khoa sau
khi bị cộng quân bắt đi. Ông bà cùng hai vị bác sĩ người Đức khác là Raimund
Discher và Bác Sĩ Altekoester là bốn bác sĩ người Đức sang giúp trường Y khoa
Huế từ 1960. Cả bốn vị đều đã bị cộng quân bắt đi xử bắn.
Tại Thành Nội, chúng tôi có buổi ăn tối với các bạn ở trường Âm Nhạc Huế. Đây
là nơi trú đóng của cộng quân trong cuộc giao chiến. Trong khu vườn nhà trường,
có con mương dẫn nước chạy qua. Lúc đứng ở sân, người vợ của anh bạn giám đốc
trường nhạc chỉ tay vào cái mương, nói là sau khi Việt Cộng đã rút chạy, anh
chị trở lại đây, thấy xác binh sĩ Việt Cộng nằm chết xếp lớp dày đặc trong con
mương.
Người chết không còn oán thù, có một mâm cơm, một bát nhang bày ở đó.
Trên đường lái xe về, trong đêm Huế thê long đâu đâu cũng thấy bầy bàn thờ nhang
khói, chúng tôi có ngừng lại thăm một ngôi nhà có người cha người anh đã bị
cộng sản chôn sống tại Gia Hội. Con em trong nhà mang áo xô gai, thay nhau cầm
bó đuốc chạy quanh gốc cây trước nhà. Theo niềm tin của dân gian, những hồn
chết oan không biết đường về nhà. Phải đốt đuốc hướng dẫn cho linh hồn lưu lạc
biết đường mà trở về.
Có biết bao hồn oan trong trận chiến Huế Mậu Thân đang chờ ánh đuốc, cả hồn oan
của những chiến binh miền Bắc bỏ xác trong mương nước thành nội.
Năm Ất Dậu, 1885, Pháp đã đưa quân vào Huế uy hiếp triều đình. Đêm 23 tháng 5 âm
lịch, 30,000 quân Nam tấn công căn cứ Pháp tại Mang Cá nhưng bị đánh bại. Kinh
thành thất thủ, đại thần Tôn Thất Thuyết phải mang Vua Hàm Nghi chạy ra Quảng
Trị mở phòng trào Cần Vương. Trong trận chiến này, hơn 1500 quân dân Huế bị tàn
sát. Ngay từ năm Mậu Tuất tiếp theo, Huế lập Đàn Tưởng Niệm, xây thêm miếu Âm
Hồn trong Thành Nội, hàng năm, đúng ngày giỗ, cả thành phố đều đốt nhang, làm
lễ. Thực dân Pháp không cấm việc dân Huế tưởng niệm người chết. Cộng sản thì
khác.
Huế Mậu Thân, số nạn nhân bị tàn sát nhiều gấp 5 lần, nhưng từ sau 1975, mọi
đài tưởng niệm đều bị phá bỏ, dân chúng thì bị công an đến từng nhà truyền lệnh
cấm tụ tập làm giỗ.
Hình ảnh bập bùng của những ngọn đuốc đêm Huế ấy bao năm vẫn chập chờn trong
đầu tôi.
Thưa quí vị,
Năm Ất Mùi 2015, bốn mươi năm sau chiến tranh Việt Nam cũng là dịp kỷ niệm 20
năm bang giao Việt Mỹ.
Lịch sử có ghi là hai năm trước khi Nội chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc, tổng thống
Hoa Kỳ Abraham Lincoln đã chỉ định "một ngày tủi nhục quốc gia" cho
nước Mỹ. Trong ngày này ông đã kêu gọi cả nước nhận chung "tội lỗi của
chúng ta" và cùng nhau xưng tội, cầu nguyện sự tha thứ.
"Ngày tủi nhục quốc gia" được công bố tại Mỹ là ngày 30 tháng 3 năm 1863.
Đã hơn 150 năm. Nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào vào tháng Tư năm 1865. Liên Bang
nước Mỹ, với sự tôn trọng dành cho phía miền Nam- lá cờ miền Nam vẫn được treo,
binh sĩ miền Nam vẫn giữ súng cá nhân, liệt sĩ Nam Bắc chung nghĩa trang, cả
nước không có một cuộc diễn binh hay lễ hội mừng chiến thắng. Từ đó mà có được
nước Mỹ ngày nay.
Sau Tết Ất Mùi, sang năm sẽ là Tết Bính Thân. Sắp thêm một năm Thân.
Chiến tranh Việt Nam, anh em một nhà bị đầy tới chỗ giết nhau, thù hận nhau.
Tháng Tư 1975 của Việt Nam- sau tháng Tư của nước Mỹ 110- thêm cả triệu người
miền Nam bị thủ tiêu, tù đày, chìm dưới đáy biển. Vậy mà cho tới nay, tại Việt
Nam cũng như tại nhiều nơi, trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thấy nghĩ lại.
Trong bài "Tựa Nhỏ: Viết Để Chịu Tội" mở đầu sách Giải Khăn Sô Cho
Huế, tôi có viêt rằng chính thế hệ chúng ta, thế hệ của tôi phải chịu trách
nhiệm về cuộc tàn sát Tết Mậu Thân cũng như cả cuộc nội chiến. Tầm nhìn thế hệ
không phải phân biệt tả hữu, nam bắc. Sau đó là lời mời gọi cùng đứng trước bàn
thờ ngày giỗ.
Khi viết lời tựa nhỏ cho bản in lần đầu "Giải Khăn Sô Cho Huế" vào
năm 1969, tôi viết với niềm tin vào tương lai của Huế, tương lai Việt Nam.
Vào năm 2008, khi viết thêm ít dòng cho bản Việt ngữ của cuốn sách được tái bản
ở Mỹ, tôi viết "Sẽ tới lúc phải có một bàn thờ chung, ngày giỗ chung tại
quê hương, nơi từng biết thế nào là sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn
hóa, lịch sử."
Và hôm nay, tại đây, vẫn với nguyên vẹn niềm tin xưa, tôi tiếp tục chờ đợi.
Những người Huế từng bị tàn sát Tết Mậu Thân xứng đáng được tưởng niệm.
Các thế hệ tương lai tại Việt Nam xứng đáng được nghe, được nghĩ, được nói điều
chân thật, được hưởng một đất nước lành lặn, sạch sẽ.
Ngày ấy sẽ tới.
Kính chào và cám ơn quí vị.
Nhã Ca
(1) Bài “Xuân Này Nhớ Xuân Xưa” của tác giả Võ
Trang, sách “Viết Về Nước Mỹ” 2009.
__._,_.___
Posted by: truc nguyen